Thứ Năm, 20 tháng 8, 2009

Pháp Hội Địa tạng

Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối.

Thứ Hai, 17 tháng 8, 2009

Nhẫn Nhục Tiên Nhân

Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối.

Một hôm trên núi Linh-Thứu thuộc thành Vương-Xá trong pháp hội Pháp-Hoa, đức Phật đã tuyên bố thọ ký cho những đồ đệ có căn trí cao sâu vào thời tương lai sẽ chứng đạo quả Vô-thượng Bồ-đề.


Trong số tăng đồ được thọ ký ấy gồm có: A-Nhã Kiều-Trần-Như đời sau sẽ thành Phật hiệu là Phổ-Minh Như-Lai; Ma-Ha Ca-Diếp sẽ thành Phật hiệu là Quang-Minh Như-Lai; Xá-Lợi-Phất sẽ thành Phật hiệu là Hoa-Quang Như-Lai; Mục-Kiền-Liên sẽ thành Phật hiệu là Đa-Ma La-Bạt Chiên-Đàn-Hương Như-Lai; A-Nan sẽ thành Phật hiệu là Sơn-Hải-Huệ Tự-Tại Thông-Vương Như-Lai; Ma-Ha Ba-Xà Ba-Đề pháp danh là Đại-Ái-Nhạo Tỳ-kheo ni đạo hiệu là Ma-Ha Kiều-Đàm-Di sẽ thành Phật hiệu là Nhất-Thiết Chúng-Sanh Hỷ-Kiến Như-Lai; Da-Du Đà-La sẽ thành Phật hiệu là Cụ-Túc Thiên-Vạn Như-Lai; Đề-Bà Đạt-Đa sẽ thành Phật hiệu là Thiên-Vương Như-Lai v.v... Những người đủ duyên đức đáng được thọ ký, đức Phật đều đã thọ ký cho cả. Nhưng trong số những người được Phật thọ ký thì A-Nhã Kiều-Trần-Như là người có những đặc thù khác biệt khiến cho đại chúng chú ý muốn biết duyên do sâu xa.

Lúc bấy giờ tôn giả Xá-Lợi-Phất quán biết lòng của đại chúng muốn thấu rõ về phước duyên đặc thù của A-Nhã Kiều-Trần-Như, nhưng không dám thưa hỏi Phật. Thấy vậy, tôn giả Xá-Lợi-Phất đến trước Phật cung kính chấp tay đảnh lễ rồi quỳ thưa với Phật rằng: "Bạch đức Thế-Tôn! Con nay quán thấy tâm của đại chúng đây hàng xuất gia cũng như tại gia đều muốn biết về đời trước của tôn giả A-Nhã Kiều-Trần-Như có nhân duyên đặc thù gì mà được đức Thế-Tôn sau khi thành đạo liền hóa độ ông ấy làm đệ tử trước nhất trong hàng trưởng-tử Như-Lai? Cúi mong xin đức Thế-Tôn rủ lòng thương xót giảng nói để cho tứ chúng khởi lòng kinh ngưỡng thâm sâu!"

Đức Phật nở nụ cười hiền hòa đáp: "Hay lắm! Hay lắm! Xá-Lợi-Phất! Như-Lai sẽ vì các thầy mà nói rõ việc nầy".

Đức Phật tiếp: "Nầy Xá-Lợi-Phất! Ta nhớ thuở đời quá khứ có một kiếp nọ, ta làm vị tiên nhân tu hạnh nhẫn nhục mà người thời bấy giờ gọi là Đại-Nhẫn-Nhục tiên nhân. Vị tiên nhân nầy ẩn mình trong rừng núi thâm sâu, gác bỏ thế sự, đói ăn hoa trái, khát uống nước suối nguồn, ngày đêm chuyên tâm tu niệm ở chốn sơn lâm thâm sâu u tịch đầy hoa thơm trái lạ, đã bao năm không có bóng người lai vảng. Bạn của Đại-Nhẫn-Nhục tiên nhân là trăng sao mây nước. Nhà cửa của Đại-Nhẫn-Nhục tiên nhân là đất rừng trời núi bao la. Ngày ngày, tiên nhân hết tọa thiền trên tảng đá bên dòng suối, lại đến dưới gốc cây ven rừng quán niệm. Tiên nhân lúc kinh hành niệm Phật dọc theo dòng suối, khi ngồi thiền quán dưới tàng cây cổ thụ um tùm. Đại-Nhẫn-Nhục tiên nhân vui thú với chim hót suốt tháng năm, thưởng ngoạn hoa rừng quanh suốt bốn mùa. Cuộc sống phẳng lặng như thế đã bao năm, tưởng chừng như bồng lai tiên cảnh, không bị ảnh hưởng trần gian thế sự nhiễu phiền.

Nào ngờ, vào một chiều tà, khu rừng êm ả tĩnh mịch như mọi ngày, chim muông hót trên cành cây kẽ lá, Đại-Nhẫn-Nhục tiên nhân đang tĩnh tọa thiền quán trên tảng đá ven thác suối, thì bỗng có tiếng người nói rộn rã xen lẫn tiếng vó ngựa chập chập ngổn ngang như tiếng sắt cành lẫn lộn mỗi lúc mỗi gần. Tiên nhân lấy làm lạ, liền nhập thiền quán sát thì biết vua Ca-Ly?à vị đại quốc vương đang trị vì đất nước đương thời. dẫn đoàn tùy tùng đi săn bắn với cõi lòng thất vọng đầy tức giận. Tiên nhân cảm thấy có triệu chứng chẳng lành sẽ xảy đến cho mình, liền tiếp tục nhập định thiền quán.

Chẳng mấy chốc, nhà vua cùng đoàn tùy tùng tay cung tay kiếm hùng hổ xông tới trước Đại-Nhẫn-Nhục tiên nhân. Như được dịp trút nỗi bực tức thất vọng trong lòng, nhà vua dõng dạc to tiếng hỏi: "Ngươi là ai? Ở đây làm gì?"

- Tâu Bệ-hạ, bần đạo là kẻ tu hành. Ở đây tu tâm dưỡng tánh, tập hạnh nhẫn nhục.

Nhà vua đang cơn bực bội gằn giọng quát to: "Tu là cái quái gì? Chính tại ngươi ở đây mà suốt mấy ngày nay, từ sáng đến giờ ta không săn được con thú nào. Ngươi có biết tội đáng chết không?"

Trước thái độ giận dữ của nhà vua, Nhẫn-Nhục tiên nhân vẫn thái độ bình thản đáp: "Tâu Bệ-hạ! Bần đạo là kẻ tu hành ở chốn rừng núi thâm sâu, thoát ngoài thế sự, đâu dám làm gì xúc phạm đến long thể Bệ-hạ?"

Nhà vua: "Hừ! Không xúc phạm hả? Chính do ngươi ở đây mà làm cho thú rừng sợ hãi xa lánh hết cả!"

Tiên nhân thưa: "Muôn tâu Bệ-hạ! xin Bệ-hạ mở lượng hải hà rộng xét. Bảo vệ mạng sống thì muôn thú mới không sợ. Bằng chứng là ngày ngày thú rừng đến làm bạn với bần đạo. Bần đạo sống nhờ hoa trái của thú rừng đem đến cho".

Vừa nghe tiên nhân nói thế, cơn tức giận bỗng nhiên trở nên sôi sục, nhà vua hét to: "Láo! Vừa rồi ngươi nói tu nhẫn nhục hả? Hừ! Xem thử ngươi có thật nhẫn nhục không? "

Vừa dứt lời, nhà vua rút gươm ra khỏi vỏ, không một chút do dự liền chặt tay tiên nhân. Mỗi nhát gươm sáng lòe phập xuống tức khắc cánh tay của tiên nhân rơi rụng, máu phun lai láng. Nhà vua như trút nỗi hằn học giận tức lên mình Đại-Nhẫn-Nhục tiên nhân. Tuy tay bị chặt đứt, nhưng gương mặt của tiên nhân vẫn bình thản trong thái độ an nhiên tự tại không chút nao núng giận hờn. Chẳng những thế, tiên nhân còn trải tâm từ bi thương xót nhà vua đầy sân si.

Liền ngay khi cánh tay đứt rời thân thể rơi xuống đất, Đại-Nhẫn-Nhục tiên nhân phát lời thệ nguyện: "Nguyện đời đời dưới mọi hình thức, trong mọi hoàn cảnh, ta tìm cách giúp đỡ cho nhà vua si mê nầy sớm có ngày hồi tâm hướng thiện; nguyện khi tu hành thành đạo chứng quả giác ngộ, trước hết ta sẽ hóa độ cho vị vua sân si nầy sớm hiểu được đạo quả giải thoát".

Do lời nguyện chí thành khẩn thiết phát xuất từ lòng đại bi, nên đời đời Đại-Nhẫn-Nhục tiên nhân và vua Ca-Lợi thường gặp nhau và sách tấn giúp đỡ cho nhau trên đường thánh thiện.

Thuật xong câu chuyện, đức Phật hướng về tôn giả Xá-Lợi-Phất nói: "Nầy Xá-Lợi-Phất! và chính ngay trong đời nầy, trong những ngày còn tầm sư học đạo, khi ta đến cầu học với tiên nhân Uất-Đầu Lam-Phất, thì A-Nhã Kiều-Trần-Như trước đó đã sớm thọ giáo với vị tiên nhân nầy rồi. Khi ta rời bỏ Uất-Đầu Lam-Phất, thì A-Nhã Kiều-Trần-Như cũng theo ta về ở rừng tu khổ hạnh. Rồi ta bỏ lối tu khổ hạnh để đến tĩnh tọa dưới cây Bồ-đề bên dòng sông Ni-Liên-Thiền, thực hành trung đạo. Sau bốn mươi chín ngày, liên tục tĩnh tọa bất động, vào một hôm, khi sao mai vừa rạng mọc, thì ta chứng được đạo quả Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác. Khi ta trở lại rừng tu khổ hạnh Lộc-Uyển độ cho năm bạn đồng tu khổ hạnh, thì chính A-Nhã Kiều-Trần-Như là người đầu tiên rất lấy làm hoan hỷ tiếp thọ giáo pháp Tứ-diệu-đế và chứng được quả A-la-hán".

Nói đến đây, đức Phật nhìn thẳng vào tôn giả Xá-Lợi-Phất mà bảo rằng: "Nầy Xá-Lợi-Phất! Thầy nên biết, vua Ca-Lợi thời quá khứ kia, chính là tiền thân của A-Nhã Kiều-Trần-Như. Còn vị Đại-Nhẫn-Nhục tiên nhân kia, chính là tiền thân của Như-Lai ta đây vậy.

tangthuphathoc.com

Xá-Lợi-Phất Niết Bàn Trước Phật

Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối.

Khi biết đức Phật sắp vào Niết-bàn, tôn giả Xá-Lợi-Phất đã tận dụng khả năng thần thông trí huệ của mình giáo hóa vô số người phát tâm Bồ-đề tu học đạo giác ngộ, rồi chính tôn giả đến trước đại chúng nói lớn rằng: "Thưa chư đại chúng! Tôi không yên lòng nhìn thấy cảnh đức Như-Lai vào Niết-bàn". Nói xong, tôn giả Xá-Lợi-Phất bay lên hư không dùng lửa thần thông tự thiêu đốt mình, làm sáng rực cả bầu trời mà vào Niết-bàn.

Trước cảnh tượng lạ lùng khiến cho đại chúng ai nấy đều xúc động bàng hoàng thương tiếc, trầm lặng nhìn nhau, lắc đầu não ruột thầm than. Để giải tỏa không khí yên lặng nặng nề bao trùm nỗi hoài nghi trong lòng đại chúng, tôn giả A-Nan từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước pháp tòa đảnh lễ đức Phật rồi kính cẩn thưa: "Bạch đức Thế-Tôn! Tại sao tôn giả Xá-Lợi-Phất lại vội vàng dùng lửa thần thông nhập diệt trước đức Thế-Tôn, việc làm khiến cho đại chúng đều sửng sốt xót xa thương tiếc như vậy? Cúi mong đức Thế-Tôn rủ lòng thương xót, vì giải tỏa sự nghi ngờ của đại chúng và chúng sanh đời sau mà giảng nói cho".

Đức Phật dạy rằng: "Nầy A-Nan! Chẳng những chỉ ngày nay Xá-Lợi-Phất nhập diệt trước khi Như-Lai vào Niết-bàn đâu, mà nhiều kiếp về trước ông ấy cũng đã làm như vậy rồi".

A-Nan thưa: "Bạch đức Thế-Tôn! Trong những kiếp quá khứa tôn giả Xá-Lợi-Phất cũng đã từng làm như thế, vậy việc ấy ý nghĩa như thế nào? Cúi xin đức Thế-Tôn dủ lòng từ bi giảng nói những nguyên nhân sâu xa đó để cho Đại-chúng dứt mối nghi ngờ".

Đức Phật bảo A-Nan rằng: "Nầy A-Nan! Ông hãy lắng nghe cho kỹ, cách đây hơn một kiếp A-tăng-kỳ, có vị quốc vương tên là Đại-Quang-Minh tu hạnh bố thí không nghịch ý. Hằng tháng nhà vua cho voi ngựa xe cộ chở thức ăn áo quần thuốc men đồ dùng ra bốn cửa thành bình đẳng bố thí cho những người thiếu thốn. Dân chúng các tiểu quốc đều đến nhận lãnh đồ bố thí của nhà vua. Đức bố thí của vua Đại-Quang-Minh đã khiến cho dân chúng bốn phương đều được ấm no, đất nước thái bình thạnh trị. Tiếng thơm đồn xa, khắp thiên hạ nức lòng ca ngợi ân đức của nhà vua. Lúc bấy giờ có vị Tiểu-vương nước láng giềng thấy sự thạnh trị hùng cường của nước Ba-La-nại và vua Đại-Quang-Minh được khắp nhân gian bốn phương thiên hạ tôn sùng ân đức như cha mẹ, nên đem lòng ganh ghét oán thù.

Vị Tiểu quốc vương nước láng giềng nầy biết vua Đại-Quang-Minh tu hạnh bố thí bất nghịch ý, nên đã triệu tập quần thần hỏi rằng: "Nầy các khanh! Trong các khanh ai là người có thể vì ta đến kinh đô nước Ba-La-Nại để xin đầu nhà vua Đại-Quang-Minh đem về đây, ta sẽ trọng thưởng chức đệ nhất quan đầu triều và ngàn cân vàng". Quần thần đều im lặng, không ai dám nhận lãnh sứ mạng nguy hiểm ấy cả. Trước sự im lặng đó, khiến cho Tiểu-vương thất vọng buồn bực vô cùng.

Sau đó, Tiểu-vương lại truyền lại khắp trong nước rằng, ai đến thành Ba-La-Nại xin được đầu vua Đại-Quang-Minh đem về thì sẽ được trọng thưởng mười ngàn cân vàng. Lúc ấy có người Bà-la-môn nghe được phần thưởng quá to lớn như vậy sanh lòng tham, nên đã yết kiến Tiểu-vương, xin nhận lãnh xứ mạng đó. Tiểu-vương vô cùng mừng rỡ, liền ra lệnh cấp lương thực ngựa xe và thúc dục người Bà-la-môn gấp rút lên đường. Trải hơn tháng trời lên núi trèo đèo vượt rừng băng suối, người Bà-la-môn mới đến được nước Ba-La-Nại.

Khi người Bà-la-môn đến trước cửa thành Ba-La-Nại thì quả đất bỗng nhiên chấn động nứt nẻ, bầu trời u ám lạnh buốt, chim muông sợ hãi bay tứ tán, mặt trăng lu mờ, sao băng, tinh tú chuyển động mất vị trí, suối hồ ao giếng cạn khô, hoa quả héo sầu, cây lá vàng úa rơi rụng, hiện tượng tiêu điều thê thảm hiển bày khắp cả nước Ba-La-Nại, khiến cho dân chúng kinh hãi lo âu.

Lính gác cửa thành thấy kẻ lạ Bà-la-môn vừa đến thì xuất hiện nhiều hiện tượng suy đồi kinh hoàng, nên hỏi người Bà-la-môn về xuất xứ từ đâu và mục đích đến đây để làm gì? Người Ba-la-môn kể lể nỗi cực khổ đã trải qua trên đường đi từ tiểu quốc lân bang đến đây. Và y đến chỉ mong được yết kiến vua Đại-Quang-Minh để trình bày việc quan trọng. Dù mấy lần quan giữ cửa gạn hỏi việc quan trọng ấy là việc gì, người Bà-la-môn vẫn giữ bí mật không nói ý định của mình, mà chỉ nằng nằng nài nỉ xin được yết kiến Đại-vương. Lính gác cửa thành vẫn quyết không cho vào. Người Bà-la-môn quyết tâm đứng ngoài cửa thành suốt bảy ngày đêm, và cuối cùng nói sự thật ý định của mình là, nghe Đại-vương Quang-Minh tu hạnh bố thí bất nghịch ý, tiếng thơm đồn xa, nên đến đây ra mắt để được xin cái đầu của Đại-vương.

Vừa nghe, quân lính gác thành nổi khí xung thiên, giận dữ đánh đuổi quát mắng, nếu không có sự can gián kịp thời thì người Bà-la-môn không toàn tánh mạng. Thấy vậy, viên tướng ngự lâm quan đem việc xảy ra ngoài cửa thành trong bảy ngày qua tâu với vua Đại-Quang-Minh. Nhà vua nghe kể xong đầu đuôi câu chuyện, liền hạ lệnh quân gác cửa thành cho người Bà-la-môn vào triều ra mắt.

Người Bà-la-môn quỳ trước bệ rồng giả vờ khóc lóc kể lể về nỗi khổ cực hiểm nguy trên đường đi, nỗi nhục nhã bị quân lính giữ thành hành hạ bảy ngày qua. Người Bà-la-môn tiếp tục lạy lục lia lịa, khóc than khẩn thiết thưa: "Dù vậy cũng không quản ngại. Kẻ tiện dân nầy từ xa đến đây được yết kiến Đại-vương là vạn phúc lắm rồi! Dù có bao khổ nhục đi nữa cũng chẳng đáng gì. Chỉ mong Đại-vương thương tình hứa khả cho xin một điều duy nhất thôi, thì kẻ tiện dân cũng thỏa nguyện lắm rồi".

Vua Đại-Quang-Minh phán rằng: "Điều gì, nhà ngươi cứ nói tự nhiên, đừng e sợ".

Người Bà-la-môn vận dụng khổ nhục kế thiểu não với giọng khẩn thiết run run thưa: "Tâu Đại-vương! Đức độ nhân từ cao cả của Đại-vương rộng lớn vang lừng bốn phương thiên hạ đều tôn sùng ngưỡng mộ bái phục. Hạnh tu bố thí bất nghịch ý của Đại-vương mười phương thánh thần trời đất đều chứng giám. Đức độ nhân từ của Đại-vương chỉ có một không hai trên đời. Tiện dân từ vạn dặm lặn lội gian nan, cam chịu vô cùng cực khổ đến đây, chỉ mong được Đại-vương mở lượng hải hà mà bố thí đầu của Đại-vương, thì ơn mưa móc cứu nhân độ thế của Đại-vương, thật vô lượng vô biên, tiện dân nầy nghìn triệu kiếp ghi xương khắc cốt không dám quên".

Người Bà-la-môn vừa dứt lời, các vị đại thần nhìn nhau, nhao nhao lớn tiếng, nổi giận, căm tức cực độ. Muốn lôi cổ người Bà-la-môn ra chém đầu ngay.

Nhưng vua Đại-Quang-Minh vẫn thái độ ung dung trầm tĩnh từ hòa can gián quần thần: "Này các khanh! Các khanh đừng làm nghịch ý người".

Rồi nhà vua quay sang dùng lời hiền hòa an ủi người Bà-la-môn. Người Bà-la-môn được thế lại tỏ ra thảm não khẩn thiết quỳ tâu tiếp: "Muôn tâu Thánh-lượng! Ân đức bố thí bất nghịch ý của Thánh-thượng bốn phương thiên hạ xa gần ai nấy cũng nức lòng khâm phục ca tụng tôn sùng ngưỡng mộ. Cho dù kẻ tiện dân nầy có chịu gian nan mất mạng mà được Đại-vương bố thí bất nghịch ý, thì kẻ tiện dân nầy còn gì sung sướng phước đức cho bằng".

Nghe người Bà-la-môn nói xong, nhà vua trầm tư suy nghĩ: Từ vô thỉ kiếp đến nay, ta đã bao lần sanh tử tử sanh cũng chỉ vì tham tiếc cái thân nầy. Nay ta vì hoàn thành hạnh nguyện bố thí bất nghịch ý, để cầu đạo quả Vô-thượng Bồ-đề phổ độ chúng sanh, thì có xá gì cái thân ô uế giả tạm nầy mà tiếc? Suy nghĩ một hồi, rồi nhà vua nói với người Bà-la-môn rằng: "Ngươi yên tâm, không có gì trở ngại. Ta sẽ làm cho ngươi toại nguyện. Xin hãy chờ ta trong vòng bảy ngày để ta có thời gian sắp đặt người giao phó ngôi vua, phu nhân, thái tử và quốc thành, rồi ta sẽ tặng đầu ta cho".

Quần thần và phu nhân, thái tử cùng hoàng tộc nghe nhà vua quyết định đem đầu cho người Bà-la-môn, tất cả đều vô cùng xúc động bỏ ăn mất ngủ lăn lộn khóc lóc thở than, tìm đủ mọi cách can gián nhà vua nên bỏ ý định. Cùng lúc ấy, hơn năm trăm vị đại thần uất hận đau khổ đập mình xuống đất than thở, họ muốn phanh thây nuốt sống người Bà-la-môn kia. Họ hỏi tại sao người Bà-la-môn không xin châu ngọc vàng bạc quý báu mà lại cứ nằng nằng nài nỉ xin cho được cái đầu máu mủ làm gì? Họ thương lượng với người Bà-là-môn muốn đổi cái đầu làm bằng bảy thứ báu kim cương thay vì đầu của nhà vua, để cho người Bà-la-môn được giàu sang đời đời. Nhưng thuyết phục dẫn dụ thế nào đi nữa, người Bà-la-môn cũng đều từ chối, chỉ nhất quyết xin cho được cái đầu của vua Đại-Quang-Minh mà thôi.

Mặc dù quần thần, phu nhân, thái tử và hoàng tộc khóc lóc lạy lục van xin, nhưng nhà vua lòng đã quyết nói: "Nay ta vì các người và hết thảy chúng sanh mà xả thân bố thí, không vì lý do gì làm ngăn cản hạnh nguyện bố thí bất nghịch ý của ta".

Nói rồi, nhà vua chấp tay thành kính hướng về bốn phương đảnh lễ phát nguyện: "Kính lạy mười phương chư Phật, chư vị Bồ-Tát từ bi thương sót chứng minh gia hộ cho con được trọn thành hạnh nguyện". Nói xong, tự tay cắt lấy đầu trao cho người Bà-la-môn. Ngay lúc đó, trời đất rúng động, trên hư không nhạc trời chúc tụng, mưa hoa rải khắp trên mình nhà vua.

Đang trong lúc nhà vua thành tâm lễ lạy mười phương, phát nguyện thực hành hạnh bố thí bất nghịch ý, thì trong quần thần có vị đệ nhất quan đầu triều không nhẫn tâm nhìn thấy cảnh tượng đau lòng của nhà vua xả thân cắt đầu bố thí một cách đau đớn, nên vội vào phòng riêng một mình tự sát trước khi vua Đại-Quang-Minh thực hành tâm nguyện đầu. Và trải qua nhiều kiếp, tôn giả Xá-Lợi-Phất thực hành tâm nguyện chết trước ta như thế, chứ nào phải chỉ riêng trong kiếp nầy!"

Nói đến đây, đức Phật bảo ngài A-Nan rằng, vị quan đệ nhất đại thần đó chính là tiền thân Xá-Lợi-Phất. Kẻ Bà-la-môn kia là tiền thân Đề-Bà Đạt-Đa. Còn vua Đại-Quang-Minh chính là tiền thân của Thích-Ca Như-Lai ta đây vậy.

Thái Tử Nhẫn Nhục Khải

Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối.

Trong kinh Thiền Bí Yếu Pháp, A-Nan thuật lại rằng: Một thuở nọ, đức Phật cùng với chúng đệ tử tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người đang ở nước Xá-Vệ trong vườn Cấp-Cô-Độc, rừng cây thái tử Kỳ-Đà, thì tôn giả Ma-Ha Ca-Diếp dẫn người đệ tử của mình tên là A-Kỳ Đạt-Đa đến ra mắt đảnh lễ đức Phật, rồi thưa: "Bạch đức Thế-Tôn! A-Kỳ Đạt-Đa theo con tu học trọn hạnh đầu đà, ngày đêm tinh tấn trải đã 5 năm, tâm an trụ thâm sâu thiền định, đạt được đạo quả A-na-hàm. Ông tiếp tục cố gắng hết sức để đạt đạo quả A-la-hán mà không thể đạt tới được. Ông khẩn cầu tha thiết xin phương pháp tu để đạt được quả Thanh-văn tối hậu. Con nhập định quán sát thì thấy ông còn vướng mắc nghiệp chướng khó mà đạt đến đạo quả A-la-hán như ông mong muốn. Nhưng A-Kỳ Đạt-Đa nhất quyết phải đạt cho kỳ được quả vị cùng tột Thanh-văn, dù phải bỏ thân mạng, chứ nhất định không cam chịu lưu trệ ở quả A-na-hàm. Con thấy đạo lực của con không thể giúp ông đạt thành tâm nguyện, nên con dẫn ông ấy đến đây cầu xin Thế-Tôn từ bi gia hộ khai thị cho ông tỏ ngộ, để ông đạt thành sở nguyện".

Tôn giả Ma-Ha Ca-Diếp vừa dứt lời thì A-Kỳ Đạt-Đa liền đảnh lễ quỳ gối chấp tay khẩn thiết bạch Phật: "Kính lạy đức thiên nhân Đạo-Sư, mong Ngài từ bi thương xót khai đạo cho con. Không biết bởi nghiệp chướng gì ngăn ngại con phải bị ngưng trệ nơi quả A-na-hàm mà không tiến lên được đạo quả A-la-hán, dù con hết tâm lực tu hành!"

Đức Phật từ hòa bảo A-Kỳ Đạt-Đa rằng: "Lành thay A-Kỳ Đạt-Đa! Ông hỏi việc ấy! Vậy ông hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, ta sẽ vì ông mà giải nói: Thuở đời quá khứ vô lượng kiếp về trước, lúc đó có đức Phật Đại-Quang-Minh ra đời thuyết pháp độ vô số chúng sanh. Thời bấy giờ có Quốc-vương nước Ba-La-Nại tên là Phạm-Ma-Da, thái tử của quốc vương này là Nhẫn-Nhục-Khải. Thái tử Nhẫn-Nhục-Khải tin sâu Phật Pháp, không sát sanh, chuyên tâm tu Thập Thiện, thực hành sáu pháp Ba-la-mật, chí thành hành đạo, không thiết ngôi vua cao quý, chỉ một lòng nguyện đạt đạo quả Vô-thượng Bồ-đề.

Trong nước có ông trưởng giả tên là Nhật-Nguyệt-Âm giàu sang phú quý, tôi tớ có đến hàng trăm, nhưng ông chỉ có người con trai độc nhất bỗng nhiên phát bệnh đại nhiệt phong nhập tâm, lòng sân hận bộc phát cuồng loạn mất trí, cầm dao chạy vào xóm làng tìm người chém giết. Ông trưởng giả thấy con điên loạn như thế rất đỗi buồn lo. Vì quá thương con, nên ông bưng lư trầm khói hương nghi ngút đi khắp bốn cửa thành rải hoa phát nguyện: "Nếu thế gian này có vị thần tiên lương y, thánh nhân nào cứu được con tôi lành bệnh, thì tôi nguyện đem hết tất cả của cải sở hữu dâng hiến không một chút luyện tiếc".

Đang lúc đó, thái tử Nhẫn-Nhục-Khải ra thành dạo chơi, thấy đại trưởng giả vì quá thương con, mà phát nguyện xả bỏ hết tài sản không chút tiếc nuối, thái tử thấy vậy động lòng từ tâm về mối tình thâm phụ tử, nên chấp tay ngước mặt lên trời thầm nguyện rằng: "Hỡi những đấng thần linh tiên nhân lương y thần dược, nên vì tình phụ tử của trưởng giả kia mà ra tay đến cứu hộ công tử".

Thái tử Nhẫn-Nhục-Khải thành tâm khấn vái vừa dứt lời, Đại tiên nhân Nhựt-Quang đang tu trên núi tuyết cảm đức thái tử, liền rời chỗ mình bay đến nói với trưởng giả: "Bịnh của công tử do đại nhiệt phong khởi đã nhập tâm, nên phát cuồng. Theo kinh tiên dạy thì phải lấy huyết của người hiền đức tu hạnh nhẫn nhục thoa vào mình công tử và lấy tủy của người thiện tâm độ lượng cho công tử uống thì mới lành bệnh được".

Vừa nghe Đại tiên nhân nói xong, trưởng giả lo buồn suy nghĩ. Thái tử Nhẫn-Nhục-Khải thấy dáng điệu lo rầu đau khổ của trưởng giả, nên cảm thông liền hỏi: "Trưởng giả có việc chi nan giải mà ưu tư lắm vậy?"

Trưởng giả đáp: "Thưa thái tử! Đại tiên nhân Nhựt-Quang sau khi xem bệnh con tôi rồi bảo cho tôi biết rằng, muốn hết bệnh thì phải lấy huyết người tu nhẫn nhục thoa vào thân nó, và lấy tủy người nhân từ tán nhỏ cho nó uống thì bệnh mới khỏi". Tôi đang nghĩ cách nào để lấy tủy huyết của chính tôi để cho con tôi mau lành bệnh thì tối mới an lòng.

Thái tử Nhẫn-Nhục-Khải an ủi trưởng giả: "Tôi nghe kinh Phật dạy rằng, chúng sanh nào làm khổ cha mẹ thì sẽ bị đọa vào ác đạo". Nay trưởng giả vì thương con mà cắt thịt lấy huyết chẻ xương lấy tủy, hủy hoại thân thể như vậy, công tử sẽ phải bị đọa trong ba đường khổ biết bao giờ mới ra khỏi. Thôi, tôi xin làm việc đó thay cho trưởng giả để cho công tử sớm được lành bệnh. Nói xong, thái tử tay cầm dao nhọn đâm vào mình lấy huyết và tủy cho con ông trưởng giả. Được huyết tủy của thái tử Nhẫn-Nhục-Khải thì công tử liền hết bệnh.

Riêng về thái tử, sau khi tự tay cắt mình lấy huyết, chẻ xương lấy tủy cứu bệnh, thì trời đất rung động sáu lần, vua trời Đế-thích, Phạm-Thiên và vô số Thiên-tử kéo nhau đến chỗ thái tử đồng thanh ca ngợi tinh thần đại-hùng-lực đại-từ-bi của thái tử, và hỏi thái tử rằng: "Vì lòng từ bi cứu người mà hy sinh không tiếc thân mạng, hay vì muốn cầu được làm Phạm-Vương, Chuyển-Luân Thánh-Vương, cầu sanh về cõi Trời hưởng phước lạc?"

Thái tử nói với trời Đế Thích: "Tôi chỉ nhứt tâm cầu đạo quả Vô-thượng Bồ-đề. Nếu nguyện tôi thành thì xin cho thân thể tôi được hoàn nguyên như cũ". Thái tử vừa dứt lời, thân thể hoàn nguyên như trước, lại còn có phần khỏe đẹp hơn xưa. Liền đó thái tử nói kệ:

Nguyện khi tôi thành Phật Phổ độ khắp trời người Thân tâm không quản ngại Lòng thương giúp tất cả Đều được trụ Niết-bàn Được an lành vĩnh viễn.

Thái tử nói kệ xong, chư Thiên mưa hoa cúng dường, lại đem nhiều châu báu đến hiến cúng thái tử.

Ông trưởng giả thấy con mình lành bệnh, liền cho người chở hết vàng bạc châu báu đến dâng tặng cho thái tử để tỏ lòng đền ơn. Thái tử đem hết của báu đó bố thí khắp tất cả mọi người.

Đức Phật nói đến đây, xoay về tôn giả Ma-Ha Ca-Diếp mà bảo rằng: "Nầy Ca-Diếp! Vua nước Ba-La-Nại khi xưa đó không ai khác, chính là tiền thân của Phụ-vương ta ngày nay. Còn trưởng giả Nguyệt-Âm xưa kia chính là tiền thân Ma-Ha Ca-Diếp ông ngày nay đó. Người con ông trưởng giả thời đó chính là tỳ-kheo A-Kỳ Đạt-Đa đây. Vua trời Đế-Thích chính là ông Xá-Lợi-Phất ngày nay. Còn thái tử Nhẫn-Nhục-Khải chính là Thích-Ca ta đây vậy"

tangthuphathoc.com

Chuyện Voi hiếu dưỡng mẹ

Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối.

Chuyện Voi hiếu dưỡng mẹ

(455. Tiền thân Màti-Posaka)

"Cho dù voi chúa phải đi xa"

Chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về một Tỷ kheo còn mẹ phải cấp dưỡng.

Hoàn cảnh của chuyện này cũng giống như chuyện Sàma (số 540 tập VI). Trong dịp này, bậc Đạo Sư nói chuyện với chúng Tăng. Ngài bảo:

- Này các Tỷ kheo, chớ giận Tỷ kheo này. Ngày xưa, bậc hiền nhân, ngay cả lúc sinh ra từ bụng của loài vật, và cách xa mẹ mình, cũng không chịu ăn uống gì trong bảy ngày, cứ gầy héo mỏi mòn. Dù được cung cấp đồ ăn vương giả, vị ấy cũng chỉ đáp: "Không có mẹ ta thì ta không muốn ăn". Tuy thế, lúc gặp lại mẹ, vị ấy mới chịu ăn như trước.

Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.


Một thuở nọ, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba La Nại, Bồ tát được sinh làm Đại tượng vương ở vùng Tuyết Sơn. Toàn thân voi màu trắng rất hùng vĩ, là chúa đàn gồm tám mươi ngàn con voi vây quanh ngài, song mẹ ngài bị mù. Ngài thường đưa cho bầy voi những quả rừng thật ngon để đem về dâng mẹ, tuy thế chúng chẳng đem gì về dâng voi mẹ, mà chúng ăn hết. Khi ngài hỏi thăm và biết được việc ấy, ngài bảo:

- Ta muốn rời đàn để nuôi mẹ ta.

Thế là một đêm thuận lợi, bầy voi không hay biết, ngài đưa mẹ đi đến đỉnh núi Candorana (Chiên Đồ Gia), tại đó ngài để mẹ ở trong một hang dưới đồi, gần một hồ nước và nuôi nấng mẹ rất chu đáo.

Bấy giờ, một người thợ rừng ở Ba La Nại đi lạc đường và không thể nào tìm lối ra được nên bắt đầu than khóc ầm ĩ. Nghe tiếng này, Bồ tát thầm nghĩ: "Đó là một người đang cơn hoạn nạn, khi ta đang ở đây mà gã gặp tai họa thật chẳng phải lẽ". Vì vậy ngài đến gần gã, song gã bỏ chạy vì quá sợ hãi; thấy thế, chúa voi bảo gã:

- Này người kia, anh không cần phải sợ ta, đừng chạy trốn, hãy nói tại sao anh vừa đi vừa khóc thế?

- Tâu chúa tể, kẻ hèn này bị lạc đường đã bảy ngày qua.

Chúa voi đáp:

- Anh đừng sợ nữa, và ta sẽ đưa anh ra đường đi của dân chúng.

Sau đó ngài bảo người ấy leo lên ngồi trên lưng ngài và đưa gã ra khỏi rừng, xong ngài quay về.

Còn con người độc ác kia quyết vào thành phố báo tin cho vua biết. Vì thế gã đánh dấu các cây cối, các ngọn đồi, rồi tiến về Ba La Nại. Lúc ấy vương tượng của hoàng đế vừa từ trần. Ngài cho truyền lệnh bằng một hồi trống.

- Nếu kẻ nào thấy ở đâu có con voi xứng đứng để hoàng thượng ngự du thì hãy báo ngay.

Sau đó gã kia đến triều kiến vua và tâu:

- Tâu Chúa thượng, tiểu thần đã thấy một con voi tuyệt mỹ, toàn thân màu trắng, một vật tối thắng xứng đáng để Chúa thượng ngự lên. Tiểu thần xin chỉ đường. Song xin đưa các người quản tượng đi theo để bắt voi.

Vua chấp thuận, bảo một người thợ rừng cùng đi với gã ấy và một đoàn tùy tùng lên đường.

Người thợ cùng đi với gã và trông thấy Bồ tát đang ăn uống trong một hồ nước. Khi Bồ tát thấy gã thợ rừng, ngài nghĩ: "Hiểm họa này chắc chắn không phát xuất từ ai khác, ngoài kẻ kia. Song ta rất mạnh, ta có thể đánh tan tành cả ngàn voi trong lúc thịnh nộ, ta lại đủ sức tiêu diệt cả đàn voi ra trận của một vương quốc. Tuy nhiên, nếu ta bị lòng phẫn nộ chi phối thì công đức của ta sẽ bị tổn hại. Vì vậy hôm nay ta sẽ không nổi giận, cho dù có bị gươm giáo đâm vào da thịt". Với quyết định này, ngài cúi đầu đứng bất động.

Người thợ rừng bước xuống hồ sen, khi thấy vẻ tuyệt mỹ của cái chóp ngà voi, gã bảo:

- Này con hãy đến đây.

Rồi nắm lấy cái vòi giống như sợi dây thừng bằng bạc, gã dẫn voi về thành Ba Na Nại trong vòng bảy ngày.

Khi mẹ Bồ tát thấy con mình không trở về, bà đoán chắc hẳn ngài bị quan quân nhà vua bắt rồi, bà than khóc:

- Giờ đây cây cối vẫn mọc, song con ta đã đi xa rồi.

Và bà đã ngâm hai vần kệ sau:

1. Dù cho voi chúa phải đi xa,

Dược thảo nhũ hương vẫn mọc ra,

Lúa cỏ, trúc đào, cùng súng trắng,

Kèn xanh chỗ khuất vẫn đơm hoa.

2. Tượng vương hẳn đến tận phương nao

Sung túc nhờ bao kẻ tước cao,

Trang điểm ngọc vàng vua chúa cỡi,

Oai hùng thắng địch thủ mang bào.

Bấy giờ người luyện voi kia, đang lúc còn đang đi đường đã gửi về triều một tờ sớ dâng vua. Nhà vua liền ra lệnh cả kinh thành trang hoàng thật lộng lẫy. Người luyện voi dẫn Bồ tát vào một cái chuồng được tô điểm bằng các dây tua, tràng hoa và vây quanh mỗi bức màn đủ màu rực rỡ, xong đến trình nhà vua. Vua mang các món cao lương mỹ vị ra bảo đưa cho Bồ tát, nhưng ngài không ăn chút gì cả: "Nếu không có mẹ ta, ta không muốn ăn gì đâu".

Vua van nài ngài ăn và ngâm vần kệ thứ ba:

3. Nào ăn đi một miếng, voi này,

Đừng có buồn chi, chớ héo gầy,

Để phụng sự vua, còn lắm việc

Mà voi sẽ đảm trách sau này.

Nghe vậy Bồ tát ngâm vần kệ thứ tư:

4. Không, trên đỉnh núi Chiên Đồ Gia

Khốn khổ bà kia, mắt lại lòa,

Dậm một chân vào gốc cổ thụ

Vì không voi chúa, ấy con bà.

Vua ngâm vần kệ thứ năm để hỏi ý nghĩa lời ngài:

5. Ai ở trên đồi Chiên Đồ Gia

Nào ai khốn khổ, lại mù lòa?

Dậm chân vào một gốc cây nọ,

Vì chẳng chúa voi, con của bà?

Voi đáp lời qua vần kệ thứ sáu:

6. Mẹ ta trên núi Chiên Đồ Gia

Khốn khổ, mù lòa thật xót xa,

Dậm một chân vào gốc cổ thụ,

Bởi vì voi chúa ấy là ta.

Khi nghe nói vậy, vua liền cho ngài được tự do, và ngâm vần kệ thứ bảy:

7. Voi hùng phụng dưỡng mẫu thân mình,

Nên thả tự do, cứ mặc tình,

Thôi để voi đi về với mẹ

Và cùng sum họp với gia đình.

Vần kệ thứ tám và thứ chín là xuất phát từ Trí tuệ Tối thắng của Đức Phật:

8. Khỏi cảnh giam cầm được thoát thân,

Hết dây ràng buộc, chúa voi rừng,

Vài lời khuyên nhủ cùng vua ấy (*),

Voi trở về nơi chốn núi ngàn.

9. Rồi xuống hồ kia mát lạnh trong,

Nơi này voi vẫn tới bao lần,

Dùng vòi hút nước từ hồ ấy

Tung vẩy khắp mình của mẫu thân.

Song mẹ của Bồ tát tưởng là trời bắt đầu mưa, nên ngâm vần kệ thứ mười để trách cơn mưa:

10. Ai đó đem mưa thật trái thời

Thần nào độc ác quá, trời ơi!

Vì nay con trẻ đà đi vắng,

Con trẻ xưa thường phụng dưỡng tôi.

Lúc ấy Bồ tát ngâm vần kệ thứ mười một để trấn an mẹ:

11. Sao mãi nằm kia vậy, mẹ ơi!

Này đây con mẹ đã về rồi,

Ca Thi Đại đế, ngài Thông Tuệ

Cho trẻ bình an được tái hồi.

Bà mẹ liền đáp lời, cảm tạ vua qua vần kệ cuối cùng:

12. Vạn tuế trường tồn, đấng Đại vương!

Cầu ngài đem lại nước hùng cường,

Tự do ngài trả cho con đó,

Với mẹ, con tròn vẹn kính thương!

Vua rất hoan hỷ vì đức độ của Bồ tát nên ra lệnh xây một thị trấn không xa hồ ấy và nhà vua thường đến phụng sự Bồ tát cùng mẹ ngài. Sau đó, khi mẹ ngài từ trần, ngài đi thật xa đến một tinh xá tên là Karandaka. Tại đây có năm trăm bậc trí giả an trú và vua thường đến cúng dường các vị ấy. Vua lại truyền tạc một tượng bằng đá có hình Bồ tát và thường đến chiêm bái để tỏ lòng ngưỡng mộ ngài. Dần dần dân chúng khắp cõi Diêm phù đề (Ấn Độ) tụ tập lại đó cùng nhau cử hành ngày hội gọi là Hội Voi.

Khi bậc Đạo Sư chấm dứt pháp thoại, Ngài tuyên thuyết các Sự thật và nhận diện Tiền thân. (Bấy giờ lúc kết thúc các Sự thật, vị Tỷ kheo phụng dưỡng mẹ đã an trú vào Sơ quả (Dự lưu):

- Vào thời ấy Ànanda là nhà vua, mẫu hậu là Mahà Màyà là mẹ voi và chính Ta là chúa voi đã nuôi dưỡng mẹ mình.

Nhận xét:

Hiếu hạnh là một trong những đức tính được Đức Phật đề cao ngay trong đời hiện tại cũng như trong các Tiền thân của Ngài.

Mỗi khi nghe nói có một Tỷ kheo nào phải cấp dưỡng cha mẹ già dù đã xuất gia theo đạo giải thoát, Ngài đều tán thán vị ấy và kể một chuyện Tiền thân để chứng minh lòng hiếu thảo là một trong những đức tính mà Bồ tát, tiền thân của Ngài đã thể hiện của nhiều hình thức tái sinh: chim muông, thú vật, hay loài người: Bồ tát đã từng làm chim anh vũ hiếu thảo trong Tiền thân Cánh đồng lúa (số 484), là nai hiếu thảo trong Tiền thân Lộc vương hoan hỷ (số 385), là con trai hiếu thảo trong Tiền thân Sàma (số 540), và voi hiếu thảo trong Tiền thân này.

Qua các Tiền thân trên, Bồ tát đã thể hiện lòng hiếu thảo cao độ ngay khi bị bắt vào thòng lọng hay khi sắp bị bắn hoặc đã bị trọng thương, ngài không hề nghĩ đến nỗi đau khổ của chính bản thân, mà chỉ nghĩ đến nỗi đau khổ của cha mẹ già yếu hoặc mù lòa không thể tự kiếm sống nếu ngài phải chết trước.

Chính lòng hiếu thảo đặc biệt ấy đã cảm hóa được những vị chủ nhân hoặc vị vua bắt ngài, khiến cho lòng họ tràn đầy xuỏc động liền thả ngài được tự do, rồi từ đó về sau họ chuyên tâm thực hành Ngũ giới và Thập thiện để được tái sinh cõi trời.

Nhân dịp lễ Vu Lan, tượng trưng ngày Báo hiếu của người con Phật và của truyền thống dân tộc, tôi xin gởi đến các đạo hữu gần xa câu chuyện Tiền thân đầy đạo vị này, là một trong những chuyện cổ tích khích lệ mọi người thực hành một đức tính mà Bồ tát, tiền thân Đức Phật, đã thể hiện qua biết bao đời sống trước khi thành Phật./.

Ghi chú:

(*) Bồ tát khuyên nhủ vua hành trì Ngũ giới và Thập thiện trước khi từ giã.

(Trích Nguyệt san Giác Ngộ, số 77, 08-2002)

Cuộc Đời và Đạo Nghiệp - giai đoạn ở Trung Quốc

-Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối. -Tuyên Hóa Thượng Nhân Pháp Âm (Vietnamese) -Cuộc đời Hòa Thượng từ khi sơ sinh cho đến khi thành tựu Đạo Nghiệp được kể lại qua những mẫu chuyện mầu nhiệm , những cảnh giới vô cùng ly kì và trên tất cả là đức hạnh tột bực không thể nghĩ bàn của Hòa Thượng . http://dharmasound.net/?type=files&paths=Master-Hua-Vietnamese/Other-Cuoi-Doi-va-Dao-Nghiep-Trung-Quoc -Giáo Pháp Của Hòa Thượng http://dharmasound.net/?type=files&paths=Master-Hua-Vietnamese

Chịu áp lực mọi bề là nhân xuất thế

Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối. Giới thiệu Tỳ Kheo Hằng Tá (Quả Hữu) Nhận chịu áp lực tả hữu mọi bề là nhân xuất thế. Hòa Thượng giảng tại Đại học Bristish Columbia, Vancouver, Canada, năm 1986 Đây là Quả Hữu, đệ tử của tôi. Sao gọi là Quả Hữu? Bởi vì tôi bảo chú đi phía hữu thì chú nhất định đi về phía tả. Còn bảo đi về phía tả, thì chú nhất định hướng về phía hữu mà đi. Bởi vì là người khó dạy, không vâng lời, nên tôi mới đặt tên chú như vậy. Tôi biết chú cũng đã hơn 20 năm rồi. Hai người đến gặp tôi lần đầu là Quả Đức (Steve Mechling) và Quả Hữu (Gary Linebarger). Lúc đó cả hai đều là học sinh nhưng lại muốn xuất gia với tôi. Tôi nói: - Hai chú hãy suy nghĩ cho kỹ, vì xuất gia không phải là chuyện dễ đâu! Tôi nghĩ có lẽ họ cũng suy đi nghĩ lại, nên rốt cuộc hai người quyết định vào đại học, thay vì xuất gia làm Thầy tu. Vài năm sau, Quả Hữu vào bệnh viện để mổ bướu. Trong lúc ở nhà thương, chú quen được một cô y tá. Tôi cũng không biết là chú theo đuổi cô ta hay cô ta theo chú. Nhưng sau đó hai người khắn khít như không thể lìa nhau. Cô y tá này có lẽ biết võ thuật và cũng là một nhân viên hộ vệ xuất sắc. Không biết lý do gì mà Quả Hữu bị cô đánh cho đến phát khóc luôn. Nhưng chú vẫn muốn kết hôn với cô nàng này. Dù có bị đánh, bị chửi gì đi nữa, chú cũng không chịu bỏ ý định kết hôn. Đấy thật là bửu bối hiếm có của cuộc tình duyên đôi lứa. Tôi bảo chú rằng: - Này chú em! Sau này chú em sẽ gặp nhiều phiền phức lắm đó nhé! Nhưng cuối cùng chú vẫn một mực kết hôn như thường. Sau khi kết hôn, Quả Hữu mới biết hôn nhân thật không có gì là vui thú, mà như là nuốt viên thuốc đắng vậy. Cả ngày từ sáng đến tối, y phải chịu đựng sự nóng giận của cô vợ. Cho đến khi không còn đè nén được nữa, y bèn chạy về chùa xin xuất gia. Tôi bảo mọi người trong chùa nên đối xử khó khăn với y. Thế là y cũng chịu hết nổi luôn. Ở chùa đại chúng khó khăn với y ra sao? Tức là ra vẻ coi thường và nói chuyện với y thật không chút khách sáo chút nào. Thậm chí còn không cho y ăn cơm nữa. Và cứ như vậy mà hành hạ chú. Bởi vậy chú cảm thấy bị đối xử so ra còn tệ hơn những lúc cãi vã với bà vợ ở nhà. Thế là lại hoàn tục. Chú cứ đi ra rồi lại trở vào chùa, như thế không biết bao nhiêu lần mà nói. Sau cùng cô vợ ý thức được sự việc và cũng muốn buông thả cho chú đi. Cô đến chùa rồi quỳ trước mặt tôi nói: - Bạch Sư Phụ! Xin Ngài mở lòng từ bi. Nay con nhất định muốn bố thí Quả Hữu cho Sư Phụ, để theo Sư Phụ xuất gia. Con thật chịu hết nổi rồi! A! Ngay cả vợ mình cũng chịu không nổi nữa. Tội nghiệp quá! Vì người nhà mà cũng còn không muốn mình, nên chú lại đến chùa. Lần này không bị ai làm khó dễ gì hết, nên chú liền xuất gia. Chú xuất gia nay đã được 12 năm rồi. Nhân duyên xuất gia của chú cũng là vì ở trong gia đình gây gổ với nhau. Nếu quý vị muốn có một gia đình êm ấm, thì nhớ đừng gây gổ với nhau. Vì nếu vợ chồng cãi vã, có thể cô vợ sẽ muốn đi tu, hoặc người chồng muốn làm tu sĩ. Một khi xuất gia thì lúc đó có hối hận cũng không còn kịp nữa. Chúng ta phải làm thế nào để có một gia đình hòa hợp? Thì hai bên phải tôn trọng lẫn nhau. Kính trọng đối xử nhau như đối với khách quý vậy. Đừng làm bộ hay giả vờ. Nên dùng lòng chân thành, ngay thật mà ái kính, tôn trọng lẫn nhau. Được như thế gia đình mới được hạnh phúc. Không nên buông lung tham ái dục. Bởi vì sự phóng túng tham ái dục sẽ làm hao mòn khí lực khiến tinh thần trở nên ngu si. Quý vị hãy tự nghiên cứu xem. Có phải lúc chưa kết hôn, hai bên nam nữ rất tôn trọng lẫn nhau phải không? Có ông nói: - Đàn bà lúc chưa kết hôn thì giống như con thỏ trắng bé bỏng, như con cừu non dịu dàng. Nhưng sau khi kết hôn rồi, thì thỏ trắng bé bỏng hay cừu non dịu dàng kia đã biến thành lão cọp cái. Thật tướng của nó lộ ra là chỉ muốn ăn thịt đàn ông. Tại sao vậy? Tức vì ngu si. Lúc chưa kết hôn thì có trí huệ, nên không cãi cọ và biết tôn trọng nhau. Một khi đã thành hôn rồi, tha hồ phóng túng theo ái dục nên bị ngu si. Cho nên các qui tắc tôn trọng, tương ái đối với nhau như khách quý nay đã quên mất ráo. Vì vậy mà gây gổ với nhau từ sáng cho đến tối. Có câu: “Gia hòa vạn sự hưng”. Nếu gia đình quý vị có hòa khí thì mọi việc đều cũng thuận lợi cả. Còn trong nhà cứ lục đục, bất hòa thì sự việc gì cũng bị trở ngại hết. Lời ban biên tập: Cư sĩ Quả Hữu quy y Hòa Thượng tháng 2 năm 1968. Quả Hữu là học sinh trong khóa giảng Kinh Lăng Nghiêm của Hòa Thượng năm 1968. Tháng 8 năm 1977, cô vợ là Quả Vạn đã “bố thí” Quả Hữu cho Hòa Thượng làm đệ tử xuất gia. Quả Hữu thọ giới Tỳ kheo vào tháng 10, 1979 tại Vạn Phật Thánh Thành với pháp hiệu là Hằng Tá. Thầy Hằng Tá hiện là trụ trì chi nhánh Vạn Phật Thánh Thành, Hoa Nghiêm Tự, Calgary, Canada. Thầy có đức tánh cần lao, tiết kiệm, ảnh hưởng phong cách của Hòa Thượng rất nhiều. chuavanphat.org

Chuyện phẩm vật cúng tiền người chết

Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối.

CHUYỆN PHẨM VẬT CÚNG TIẾN NGƯỜI CHẾT

(Tiền thân Matakabhatta)

Sanh ra cõi đời là khổ đau…

Trong khi trú tại tinh xá Kỳ Viên (Jetavana), đức Thế Tôn kể câu chuyện này về việc cúng tiền cho người quá cố. Bấy giờ, dân chúng thường đem dê, cừu v.v.. dâng cúng cho cho người thân đã quá cố. Nhìn thấy dân chúng làm việc ấy, các Tỳ-kheo bạch hỏi đức Thế Tôn:

– Bạch Thế Tôn, nay dân chúng giết hại sinh vật để dâng cúng cho người thân đã quá vãng của họ, viêc làm như vậy có được ích lợi gì không?


Đức Thế Tôn trả lời:

– Này các Tỳ-kheo, không có ích lợi gì cả khi tước đi mạng sống của sinh vật để dâng cúng cho người quá vãng. Vào đời trước, bậc Hiền trí từ trên không trung đã thuyết pháp và chỉ ra những ác quả của việc làm ấy, khiến cho toàn thể dân chúng từ bỏ sát sanh. Nhưng giờ đây do vì tái sanh làm mờ mịt tâm trí, nên hành động ấy lại khởi lên.

Nói vậy xong, đức Thế Tôn kể câu chuyện Tiền thân này.

* * *

Thuở xưa, khi Phạm Dự (Brahmadatta) trị vì vương quốc Ba-la-nại, có một vị Bà-la-môn thông suốt ba bộ Vệ-đà và là một bậc thầy danh tiếng trong đời. Ông muốn cúng tiến cho người thân đã quá vãng nên cho giết một con dê và nói với những học trò của mình:

– Này các con, hãy mang con dê này xuống sông và tắm rửa nó sạch sẽ, sau đó treo một vòng hoa quanh cổ nó, cho nó ăn một hủ gạo, chải lông cho nó và mang nó trở lại đây.

Những học trò vâng lời và mang con dê xuống sông. Ở đấy, họ tắm và chải lông cho nó rồi sau đó đưa nó lên bờ. Con dê biết được những hành nghiệp của mình trong những kiếp sống quá khứ nên vui mừng khốn xiết vì nghĩ rằng chính ngày hôm nay nó sẽ được giải thoát khỏi tất cả những khổ đau của mình. Nó cười lớn giống như tiếng đập vỡ một cái chậu. Nhưng rồi nó lại nghĩ rằng, Bà-la-môn này với việc giết nó sẽ phải mang lấy khổ đau do ác nghiệp mang lại. Vô cùng thương xót cho Bà-la-môn này, con dê đã lớn tiếng khóc. Những thanh niên Bà-la-môn thấy thế thì hỏi:

– Này bạn dê, bạn vừa cười lớn tiếng rồi lại khóc lớn tiếng. Điều gì khiến bạn cười và điều gì khiến bạn khóc?

– Xin hãy hỏi điều này trước thầy của các bạn.

Thế rồi họ cùng với con dê đi đến thầy của họ. Sau khi nghe họ kể câu chuyện, vị thầy hỏi con dê tại sao nó cười và tại sao nó khóc. Ngay khi ấy, con dê nhờ khả năng nhớ được những kiếp sống quá khứ nên nhớ lại được những hành nghiệp của mình. Nó nói với vị Bà-la-môn thế này:

– Thưa Ba-la-môn, vào kiếp trước, cũng giống như ngài, tôi cũng là một vị Bà-la-môn thông suốt các kinh Vệ-đà. Nhưng vì muốn cúng tiến cho người thân đã quá cố, tôi đã giết hại một con dê để dâng cúng. Cả đời chỉ giết một con dê thôi, nhưng tôi đã bốn trắm chín mươi chín lần bị chặt đầu. Đây là lần thứ năm trăm và cũng là lần cuối cùng tôi bị chặt đầu. Tôi cười lớn khi nghĩ rằng chính ngày hôm nay tôi sẽ được thoát khỏi tất cả khổ đau của mình. Ngược lại, tôi khóc khi nghĩ, trong khi tôi chỉ vì giết hại một con dê đã phải chịu mất đầu năm trăm lần, mãi đến hôm nay mới được giải thoát khỏi khổ đau, còn ngài, do ác nghiệp sát hại tôi, sẽ bị mất đầu năm trăm lần giống như tôi vậy. Chính vì xót thương cho ngài phải chịu cảnh đó nên tôi đã khóc.

Bà-la-môn nói:

– Này dê, đừng sợ. Tôi sẽ không giết bạn đâu.

– Thưa Bà-la-môn, ngài nói gì? Dù ngài có giết tôi hay không thì ngày hôm nay tôi cũng không thể thoát được cái chết. Dê nói.

– Này dê, đừng sợ. Tôi sẽ đi cùng với bạn để bảo vệ bạn.

– Thưa Bà-la-môn, sự bảo vệ của ngài thì yếu, còn ác nghiệp của tôi thì mạnh vô cùng.

Để cho con dê được sống yên ổn, Bà-la-môn nói với các đệ tử của mình:

– Chúng ta không để cho bất cứ người nào giết hại con dê này.

Thế rồi cùng với những thanh niên, Bà-la-môn đi sát theo sau con vật. Khi con dê được tự do, nó vươn cổ ra để gặm lá bụi cây mọc gần chóp một tảng đá. Chính lúc đó, sét đánh vào tảng đá và chẻ ra một mảng đá. Mảng đá đó đã đánh vào cổ con dê đang vươn ra và cắt đứt đầu của nó. Thấy thế, dân chúng tập trung lại xem.

Bấy giờ, Bồ-tát thọ sinh làm Thần cây ở tại nơi đó. Bằng thần lực của mình, Bồ-tát ngồi kiết già trên không trung trong khi đám đông đang đứng nhìn. Bồ-tát nghĩ: “Nếu những người này biết được kết quả của ác nghiệp, họ sẽ tử bỏ sát sanh”. Thế rồi bằng một giọng nói nhu hòa, Bồ-tát thuyết pháp cho họ qua bài kệ:

Sanh ra cõi đời là khổ đau

Thế nhân nếu biết vậy thâm sâu

Hữu tình không giết hữu tình nữa

Giết hại chúng sinh chịu khổ sầu.

Bậc Đại sĩ đã thuyết pháp như vậy, làm cho thính chúng sợ hãi chốn địa ngục. Còn dân chúng khi nghe ngài nói như thế, quá sợ hãi cõi địa ngục nên từ bỏ sát sanh. Rồi sau khi thuyết pháp khiến cho dân chúng thọ trì giới pháp xong, Bồ-tát đã thọ sanh theo hành nghiệp của mình. Dân chúng cũng tinh chuyên thọ trì lời dạy của Bồ-tát, trọn đời làm việc bố thí và thực hành thiện nghiệp, đến khi mạng chung đã sanh về làm đông đảo kinh đô chư thiên.

* * *

Kết thúc pháp thoại, đức Thế Tôn nêu lên mối liên hệ của hai câu chuyện và nhận diện Tiền thân:

– Vào thuở đó, Ta chính là vị Thần cây.

phatviet.com

Chủ Nhật, 16 tháng 8, 2009

Bốn Điều Răn Dạy Minh Bạch Về Tánh Thanh Tịnh (2)

Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối. Kinh Văn: Hán Việt: Phật cáo A-Nan: “Nhữ thường văn ngã Tỳ-nại-da trung, tuyên thuyết tu hành tam quyết định nghĩa. Sở vị nhiếp tâm vi Giới, nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Huệ; thị tắc danh vi Tam Vô-Lậu Học.” Việt: Đức Phật bảo ngài A-Nan: “Ông thường nghe Ta tuyên thuyết ba nghĩa quyết định của sự tu hành trong Tỳ-nại-da. Đó là: Nhiếp tâm là giới, do Giới sanh Định, do Định phát Huệ. Đó gọi là Tam Vô-Lậu Học.” Giảng nghĩa: Khi toàn thể Đại-chúng trong Pháp-hội đều đồng lòng vâng theo lời dạy, Đức Phật bảo ngài A-Nan: “Ông thường nghe Ta tuyên thuyết ba nghĩa quyết định của sự tu hành trong Tỳ-nại-da.” “Tỳ-nại-da” (Vinaya) tức là Luật-tạng của Đại-thừa và Tiểu-thừa, trong đó chuyên giảng về Giới-luật của Đại-thừa và Giới-luật của Tiểu-thừa. Đức Phật nói với ngài A-Nan rằng: “Ông luôn luôn được nghe những gì Ta nói. Vậy khi Ta giảng về các đạo lý trong Giới-luật, hẳn ông đã từng nghe Ta nêu ra những đạo lý tu hành này. Tu hành thì cần phải căn cứ theo ba nghĩa quyết định--ba điều cố định, bất biến, dứt khoát không thể sửa đổi. Vậy, ba nghĩa quyết định đối với sự tu hành này là gồm những gì? Đó là: Nhiếp tâm là Giới, do Giới sanh Định, do Định phát Huệ.” Ba nghĩa quyết định này là về Giới, Định và Huệ. “Nhiếp” tức là nhiếp thủ, nhiếp trì, có nghĩa là thâu giữ, thu hút, giống như đá nam-châm hút sắt vậy. Thế nào gọi là “nhiếp tâm”? Tâm của chúng ta, đặc biệt là cái tâm phan-duyên, suốt ngày chỉ toàn âm mưu, toan tính chuyện lợi dụng người khác, nghĩ cách kết thân với những người giàu có hoặc có thế lực để dựa dẫm, trục lợi. Lúc nào cũng nghĩ ngợi những chuyện như thế tức là có tâm phan-duyên, và chính là không nhiếp tâm. “Nhiếp tâm” có nghĩa là thâu hồi cái tâm phan-duyên trở lại, không cho nó đi “phan duyên,” không để cho nó chạy rông nữa. Thế nhưng, cái tâm này, quý vị không muốn nó chạy, nó cũng tự động chạy; quý vị bảo nó đừng khởi vọng tưởng, song chưa tới một phút là vọng tưởng lại ùn ùn dấy lên rồi! Vọng tưởng này ngừng thì vọng tưởng kia dấy khởi, niệm trước vừa diệt thì niệm sau liền sanh; niệm sau vừa diệt thì niệm sau nữa lại sanh – đó chính là cái tâm phan-duyên “niệm niệm chẳng ngừng” vậy. Thế thì bây giờ phải làm sao? Phải nhiếp trì tâm phan-duyên--thâu nhiếp cái tâm ấy trở lại và giữ nó ở yên một chỗ! Chúng ta sở dĩ không thể thành Phật, không thể khai ngộ, không thể liễu Đạo, chính là vì chúng ta chưa khống chế được cái tâm này. Nếu khống chế được cái tâm này, giữ được nó ở yên một chỗ, thì chẳng có chuyện gì mà chúng ta không làm được; và bấy giờ, mọi việc đều thành công, mọi sự đều thành tựu. Cho nên, trước hết, chúng ta cần phải thâu nhiếp và chế ngự cái tâm phan-duyên; và đó chính là Giới, tức là biện pháp để “chỉ ác phòng phi” (chấm dứt điều ác và ngăn ngừa sự sai trái). Trước hết, quý vị cần phải có được Giới. Có được Giới thì cũng giống như chậu nước đục được để yên, không bị khuấy động. Khi không còn chao động nữa thì đất cát từ từ lắng xuống đáy chậu, nước trở nên trong trẻo. Đó là “do Giới sanh Định” vậy. “Định” tức là không dao động, không chao đảo. Do không dao động mà sanh ra “Định.” Khi không còn bị dao động, lay chuyển nữa, tức là có được Định rồi, thì sẽ “do Định phát Huệ”; như lời Bồ-tát Văn-Thù Sư-Lợi: “Sạch tột, sáng thông suốt.” (Tịnh cực, quang thông đạt.) Hễ trong sạch tới cực điểm thì tự nhiên ánh sáng sẽ soi tỏ, xuyên suốt tất cả; “quang thông đạt” tức là được khai ngộ. “Do Định phát Huệ” nghĩa là từ trong Định sẽ nảy sanh trí huệ chân chánh. “Đó gọi là Tam Vô-Lậu Học.” Giới, Định và Huệ được gọi chung là ba môn học vô-lậu. Nếu quý vị giữ Giới thì sẽ có được Định, và từ Định sẽ nảy sanh Trí-huệ. Kinh Văn: Hán Việt: “A-Nan! Vân hà nhiếp tâm ngã danh vi Giới?” Việt: “A-Nan! Vì sao Ta gọi nhiếp tâm là Giới?” Giảng nghĩa: Đức Phật lại gọi: “A-Nan! Vì sao Ta gọi nhiếp tâm là Giới? Nhiếp tâm còn được gọi là gì? Ta đặt cho sự ‘nhiếp tâm’ cái tên Giới là có ý nghĩa gì? Bây giờ Ta sẽ nói cho ông rõ.” Không Dâm Tâm Kinh Văn: Hán Việt: “Nhược chư thế giới Lục-đạo chúng sanh, kỳ tâm bất dâm, tắc bất tùy kỳ sanh tử tương tục.” Việt: “Nếu chúng sanh trong Lục-đạo ở các thế giới mà tâm không dâm dục thì sẽ không bị cuốn theo dòng sanh tử tương tục.” Giảng nghĩa: “Nếu chúng sanh trong Lục-đạo ở các thế giới mà tâm không dâm dục thì sẽ không bị cuốn theo dòng sanh tử tương tục.” Giả sử tại mọi thế giới, tất cả những chúng sanh trong sáu cõi là cõi trời, cõi A-tu-la, cõi người, cõi địa ngục, cõi ngạ quỷ, và cõi súc sanh, đều không còn lòng dâm dục, hết sạch dục niệm, thì dòng sanh tử của họ sẽ dứt hẳn, họ sẽ không còn bị tùy thuộc vào dòng sanh tử cứ tiếp diễn liên tục, không hề gián đoạn đó nữa -- sự sanh tử của họ được chấm dứt. Kinh Văn: Hán Việt: “Nhữ tu Tam-muội, bổn xuất trần lao, dâm tâm bất trừ, trần bất khả xuất.” Việt: “Ông tu pháp Tam-muội vốn để thoát trần-lao, nhưng nếu không trừ bỏ tâm dâm-dục thì chẳng thể ra khỏi trần-lao.” Giảng nghĩa: “Ông tu pháp Tam-muội vốn để thoát trần-lao.” “Ông” ở đây là chỉ ngài A-Nan. Đức Phật nói rằng: “Này A-Nan! Ông tu Định-lực cốt yếu là để vượt thoát trần-lao, ra khỏi sanh tử; nhưng nếu không trừ bỏ tâm dâm dục thì chẳng thể ra khỏi trần lao. Nếu ông không đoạn trừ cái tâm dâm dục thì việc thoát khỏi trần-lao là chuyện chẳng thể có được, không thể nào thực hiện được! Vì sao? Vì tâm dâm dục chính là ‘trần’ (bụi bặm), tức là một thứ ‘trần lao’ kia mà! Do đó, đừng nói là vi phạm bằng hành động, chỉ cần trong lòng ông dấy khởi một ý tưởng dâm dục, có cái dâm-tâm tồn tại, thì đó cũng chính là trần-lao rồi, và như thế là ông cũng vẫn chưa thoát ra khỏi nó được. Cho nên, nếu muốn tu Đạo, muốn được khai ngộ thành Phật, mà lại không chịu dứt bỏ dâm-tâm, thì là chuyện chẳng thể nào xảy ra được.” Do vậy, chỉ có những kẻ vô cùng si mê mới vừa muốn giữ cái tâm dâm dục lại vừa muốn được khai ngộ. Tư tưởng này thuộc loại ngu si tột đỉnh, và những người mang tư tưởng này là những kẻ khó có thể giáo hóa nhất; cho dù bây giờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có giáng thế đi chăng nữa thì Ngài cũng không có cách nào làm cho họ đắc Đạo hay chứng quả vị được cả! Cho nên, hạng người này là ngu dốt nhất, si mê nhất! Kinh Văn: Hán Việt: “Túng hữu đa trí, Thiền-định hiện tiền, như bất đoạn dâm, tất lạc Ma-đạo, thượng phẩm Ma-vương, trung phẩm ma-dân, hạ phẩm ma-nữ.” Việt: “Dầu có đa trí, Thiền-định hiện tiền, mà nếu chẳng dứt trừ dâm dục tất sẽ lạc vào Ma-đạo--thượng phẩm thì làm Ma-vương, trung phẩm thì làm ma-dân, hạ phẩm thì làm ma-nữ.” Giảng nghĩa: “Dầu có đa trí, Thiền định hiện tiền, mà nếu chẳng dứt trừ dâm dục tất sẽ lạc vào Ma-đạo.” Đức Phật lại bảo ngài A-Nan : “Cho dù ông có trí huệ và hễ ngồi Thiền là đạt được cảnh giới khinh an, cảm thấy tốt đẹp vô cùng, nhưng nếu ông không đoạn trừ tâm dâm dục thì ông sẽ bị trở thành Ma-vương.” “Thiền định hiện tiền” tức là đã có khả năng nhập Định, công phu đã có chỗ thành tựu. “Thượng phẩm thì làm Ma-vương.” Làm ma thì bậc cao nhất là gì? Đó là làm Ma-vương ở Lục Dục Thiên. “Trung phẩm thì làm ma-dân, hạ phẩm thì làm ma nữ.” Bậc trung bình của loài ma là gì? Là ma dân, tức là dân chúng bình thường của loài ma. Còn bậc thấp kém nhất của ma đạo là gì? Là ma nữ, tuy là xinh đẹp nhưng vô cùng hèn hạ. Về điểm này, người có trí huệ cần phải thận trọng và người thông minh cần phải chú ý! Đừng để cho mình bị hại bởi sự thông minh của chính mình, đừng tự cho mình là tài giỏi, phi thường: “Các người không hiểu được đâu, chỉ có tôi mới hiểu nổi! Các người không biết gì cả, chỉ có tôi mới biết rành rẽ mà thôi!” Đó chẳng qua chỉ là thứ “tiểu trí tiểu huệ,” cái hiểu biết hạn hẹp, nông cạn. Song, cái “tiểu trí tiểu huệ” ấy của quý vị có thể huỷ hoại cả tiền đồ của chính quý vị đấy! Kinh Văn: Hán Việt: “Bỉ đẳng chư ma, diệc hữu đồ chúng, các các tự vị thành Vô-thượng Đạo.” Việt: “Những loại ma ấy cũng có đồ chúng, tất cả đều tự xưng đã thành tựu Đạo Vô-thượng.” Giảng nghĩa: Quý vị xem, hạng người có chút “tiểu trí tiểu huệ” ấy vì không đoạn trừ dâm-tâm nên nói toàn những chuyện ái dục – anh yêu em, em yêu anh - cứ yêu qua yêu lại như thế rồi cuối cùng họ thành ma luôn! Thành ma rồi thì sao nữa? “Những loại ma ấy cũng có đồ chúng.” Chúng ma ấy cũng có đồ đệ, cũng có kẻ ủng hộ chúng. “Tất cả đều tự xưng đã thành tựu Đạo Vô-thượng.” Bản thân loài ma không biết xấu hổ, kẻ nào cũng tự xưng rằng: “Tôi chính là Phật! Chúng tôi đây đều là những đấng tối cao, vô thượng!” Hễ cái gì là to lớn, thì chúng xưng chúng là cái đó. Chúng vốn là ma nhưng lại không chịu thừa nhận mình là ma, mà cứ xưng là Phật. Phật thì cũng có Phật giả mạo vậy. Trên thế gian này cái gì cũng có giả được cả, cho nên loài ma cũng có thể làm ông Phật giả. Song le, chúng không chịu nhận chúng là thứ giả. Chúng cho rằng chúng là thứ thiệt, và cũng là “thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn” (trên trời, dưới trời, chỉ mình ta là tôn quý) nữa! Kinh Văn: Hán Việt: “Ngã diệt độ hậu, Mạt Pháp chi trung, đa thử ma-dân xí thạnh thế gian, quảng hành tham dâm, vi Thiện-tri-thức, linh chư chúng sanh lạc ái kiến khanh, thất Bồ-đề lộ.” Việt: “Sau khi Ta diệt độ, trong thời Mạt Pháp sẽ có nhiều loại ma dân ấy hiện ra đông đảo ở thế gian, mở rộng sự tham dâm, lại tự xưng là Thiện-tri-thức, khiến cho chúng sanh bị sa vào hầm ái-kiến, lạc mất con đường Bồ-đề.” Giảng nghĩa: Trước khi nhập diệt, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy rằng: “Hiện nay Ta còn ở tại thế gian thì bè lũ Ma-vương không dám xuất hiện. Song le, sau khi Ta diệt độ, trong thời Mạt Pháp, lúc Phật Pháp đang ở vào giai đoạn tàn lụn, thì sẽ có nhiều loại ma dân ấy hiện ra đông đảo ở thế gian, mở rộng sự tham dâm.” “Thời Mạt Pháp” chính là thời đại của chúng ta hiện nay. Vào thời điểm này, loại ma-dân ấy rất đông đúc và chúng đi khắp nơi nói chuyện dâm dục. Bất luận nam hay nữ, kẻ nào cũng ưa thích dâm dục và đồng thời cũng muốn thành Phật, muốn được khai ngộ. Làm sao tôi nhận biết được “con ma” loại này ư? Trước kia, có lần tôi gặp một người nọ - không cần phải đề cập đến tên của ông ta - tự xưng mình là Phật. Khi tôi nói rằng ông ta là ma, ông ta liền hỏi lại: “Ai là ma?” Tôi đáp: “Ông chính là ma đấy!” Vì sao tôi biết được ư? Vì ông ta cứ giở những trò của ma! Ông ta chuyên môn nói chuyện tình cảm, yêu đương; lúc nào cũng: “I love everybody.” Ông ta lấy tư cách gì mà thương yêu tất cả mọi người? Thật là không biết xấu, không biết hổ thẹn! Thời Mạt Pháp, ma-dân nhan nhản khắp nơi khiến cho thế gian này như trong cơn hỏa hoạn, đâu đâu cũng rừng rực ngọn lửa dâm dục. Những người thiếu hiểu biết đều hùa theo bọn chúng: “Họ nói nghe được lắm! Những điều họ nói đều rất có lý!” Đặc biệt là những thanh niên trẻ tuổi, ai nấy đều cảm thấy những điều chúng nói rất “tâm đầu ý hợp.” Có câu: «Cùng mùi thối thì hợp nhau. » (Xú vị tương đầu.) Người này thì hôi hám, người kia cũng thối tha, bởi “cá mè một lứa” cho nên người này bảo người kia giỏi, người nọ khen người này hay. Nếu không cùng “mùi,” chẳng cùng sở thích, thì sẽ không khen ngợi lẫn nhau ; bởi: « Khác chí hướng ắt không cùng nhau mưu sự được. » (Đạo bất đồng tắc bất tương vi mưu.) Tuy nhiên, nếu chí hướng giống nhau, lối suy nghĩ giống nhau, thì sẽ có trường hợp “người mù dắt người đui” xảy ra. “Người mù dắt người đui” có nghĩa là kẻ đui mù mà lại dẫn đường cho người mù đui. Quý vị thấy như thế có đáng thương hay không chứ? Tôi nói như vậy chẳng phải là muốn trách mắng người nào cả, nhưng quý vị phải biết rằng: Hồ đồ dạy hồ đồ, Dạy rồi chẳng ai hiểu, Sư-phụ đọa địa ngục, Đệ tử cũng xuống theo! Gặp lại nhau ở địa ngục, sư-phụ mới ngỡ ngàng hỏi đệ-tử : “Ủa, sao con cũng ở đây?” Đệ-tử đáp: “Thì thầy tới trước kia mà. Lẽ dĩ nhiên là con đi theo thầy thôi!” Thì ra đôi bên đều không biết làm thế nào mình lại lọt vào đó được! Quý vị thấy có đáng thương hay không? “Lại tự xưng là Thiện-tri-thức.” Bọn chúng còn khoe khoang không ngượng miệng : “Tôi đến chỗ nọ để giảng Kinh. Tôi tới chỗ kia để give lecture. I give lecture to everybody.” Thật là buồn cười hết sức! “Khiến cho chúng sanh bị sa vào hầm ái-kiến, lạc mất con đường Bồ-đề.” Chúng làm cho tất cả chúng sanh đều bị rơi vào hầm hố dâm dục và đi lạc ra khỏi con đường Bồ-đề. Con đường Bồ-đề đã mất, không còn nữa, thì chạy đi đâu? Chạy vô địa ngục! Bấy giờ, sư phụ trông thấy đệ-tử lù lù bước vô thì kinh ngạc hỏi: “Sao con cũng tới đây vậy? Đây chẳng phải là chỗ tốt đâu!” Đệ-tử chưng hửng đáp: “Thầy mới là người tới trước kìa! Con thì đương nhiên là phải theo thầy rồi, thầy là sư phụ của con mà!” Thầy thở dài ngao ngán: “Ui chao! Lẽ ra con không nên theo thầy, bởi đây là một nơi đầy thống khổ!” Kinh văn: Hán Việt: “Nhữ giáo thế nhân tu Tam-ma-địa, tiên đoạn tâm dâm, thị danh Như Lai, tiên Phật Thế Tôn, đệ nhất quyết định thanh tịnh minh hối.” Việt: “Vậy ông dạy người đời tu pháp Tam-ma-địa, trước hết phải dứt trừ tâm dâm dục. Đó là lời minh huấn quyết định thứ nhất về tánh thanh tịnh của Như-Lai và chư Phật Thế Tôn thuở trước.” Giảng nghĩa: Sự khác biệt giữa “phản” (trái) và “chánh” (phải) – giữa Ma-vương và Bồ-tát - vốn rất vi tế; khác biệt như thế nào? Bồ-tát thương xót và che chở tất cả chúng sanh với lòng từ-bi, chứ tuyệt đối không có lòng dâm dục. Trong khi đó, Ma-vương đối với chúng sanh thì cứ đề xướng “ái”, chuyên môn nói chuyện dâm dục, chú trọng dâm dục; thậm chí chúng còn nói rằng hễ tâm dâm dục càng nặng bao nhiêu thì khai ngộ được quả vị càng cao bấy nhiêu, và dùng tà thuyết ấy để hại người. Bồ-tát thì không có tâm dâm dục, các ngài đối với tất cả chúng sanh hoàn toàn không có sự phân biệt. Có tâm dâm dục tức là ma. Không có tâm dâm dục, chỉ đơn thuần xót thương và cứu giúp tất cả chúng sanh – đó mới chính là cảnh giới của chư Phật và chư Bồ-tát. Ma thương người là có mưu đồ, có tham dục. Bồ-tát thương người thì không có tham dục. Không có tham dục tức là không có tâm dâm dục. Cho nên, trong Phật giáo có giảng về Thập Nhị Nhân Duyên như sau: Vô minh duyên Hành; Hành duyên Thức; Thức duyên Danh, Sắc; Danh, Sắc duyên Lục Nhập; Lục Nhập duyên Xúc, Xúc duyên Thọ; Thọ duyên Ái; Ái duyên Thủ; Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sanh; Sanh duyên Lão, Tử. Và, đó cũng chính là điểm bất đồng giữa Phật-giáo với các giáo phái của Ma-vương ở thế gian. “Vậy ông dạy người đời tu pháp Tam-ma-địa, trước hết phải dứt trừ tâm dâm dục. Ông phải dạy cho tất cả mọi người ở thế gian muốn tu pháp-môn Định-lực này biết rằng việc đầu tiên họ cần phải làm là dứt bỏ dâm-tâm, quét sạch dục-niệm. Đó là lời minh huấn quyết định thứ nhất về tánh thanh tịnh của Như-Lai và chư Phật, Thế-Tôn thuở trước.” Đạo lý này vốn do chính Đức Như-Lai và tất cả chư Phật, Thế-Tôn thuở trước dạy bảo. Các ngài đã đưa ra lời giáo huấn rất rõ ràng: “Nhất định phải cắt đứt, loại trừ tâm dâm dục!” Đây là điều kiện tất yếu thứ nhất, dứt khoát không được sửa đổi một mảy may. Đạo lý này là “quyết định nghĩa,” chứ không phải là “bất định nghĩa”; cũng chẳng phải là “không nhất định” - chẳng phải là có cũng được mà không có cũng được. Cái tâm dâm dục dứt khoát phải không còn tồn tại. Có tâm dâm dục tất sẽ bị lạc vào đường ma. Nếu vẫn giữ tâm dâm dục mà mong khai ngộ, thì chắc chắn sẽ trở thành quyến thuộc của Ma-vương! Kinh Văn: Hán Việt: “Thị cố A-Nan, nhược bất đoạn dâm, tu Thiền-định giả, như chưng sa thạch dục kỳ thành phạn, kinh bách thiên kiếp, chỉ danh nhiệt sa. Hà dĩ cố? Thử phi phạn bổn, sa thạch thành cố.” Việt: “Cho nên, A-Nan, nếu kẻ tu Thiền-định mà không dứt trừ dâm tâm thì cũng như nấu cát sạn mà muốn thành cơm, dầu có trải tới trăm ngàn kiếp cũng chỉ gọi là sạn nóng. Vì sao? Vì đó không phải là gốc của cơm, mà chỉ là cát sạn!” Giảng nghĩa: Quý vị xem, ở đây Phật lại nêu ra một tỷ dụ nữa. Đức Phật bảo ngài A-Nan: “Ông chưa tin ư? Ông chưa tin thì Ta sẽ giảng nghĩa cho ông rõ.” Và Đức Phật dạy tiếp: “Cho nên, A-Nan, nếu kẻ tu Thiền-định mà không dứt trừ dâm tâm thì cũng như nấu cát sạn mà muốn thành cơm. Vì lẽ ấy cho nên, A-Nan à, giả sử ông không đoạn trừ tâm dâm dục mà ngày ngày cũng ngồi Thiền, cũng tu hành, tất ông sẽ vừa tu hành vừa bị lậu thoát. Ông tu được một phần thì lậu thoát mười phần, tu được mười phần thì lậu thoát mất một trăm phần. Ông muốn ngồi Thiền mà lại không chịu dứt bỏ dâm-tâm ư? Ông vừa muốn ngồi Thiền để được khai ngộ, lại vừa muốn tìm cầu thứ lạc thú điên đảo ấy, thì chẳng khác nào muốn nấu cát và sạn cho thành cơm vậy. Ông đem cát sạn đi nấu, dầu có trải tới trăm ngàn kiếp cũng chỉ gọi là sạn nóng. Dù ông cứ nấu như thế trong suốt cả trăm ngàn kiếp đi chăng nữa, thì cũng chỉ có thể gọi đó là ‘sạn nóng’ mà thôi, chẳng có công dụng gì cả. Vì sao? Do duyên cớ nào ư? Vì đó không phải là gốc của cơm, mà chỉ là cát sạn! Thứ mà ông đem nấu chính là cát sạn, chứ không phải là gạo, không có chất liệu của cơm! Nếu ông muốn khỏi dứt bỏ dâm tâm mà vẫn được khai ngộ thì cũng tương tự như nấu cát sạn mà mong thành cơm, ao ước cát sạn biến thành lúa gạo vậy.” Khi không còn dâm-tâm thì sẽ không thấy có tướng nam tướng nữ, không còn phân biệt giữa mình với người, và cũng không thấy có tướng chúng-sanh, tướng thọ-giả nữa. Có những người không biết hổ thẹn, dám nói rằng: “Tôi là người như thế đấy!” Chỉ nói suông như vậy thì chẳng đáng tin. Không có gì làm bằng chứng thì làm sao quý vị biết được mình là người như thế? Nếu quả thật quý vị là người như thế thì quý vị phải là người hoàn toàn không biết mình là người như thế mới đúng; và quý vị cũng sẽ không nói: “Chứ sao! Tôi không có tâm dâm dục!” Người đã hết sạch dục niệm thì không có thứ kiến giải ấy. Không có, tức là không có. Họ chẳng làm rùm beng, chẳng quảng cáo, chẳng đăng báo, và cũng chẳng khoe khoang: “Tôi là người như thế đấy!” Chỉ một việc tự rêu rao, tự quảng cáo cho mình là đã không phải rồi; cho nên mọi người cần phải chú ý đến điểm này! Nếu quý vị quả thật không có tâm dâm dục, thì quý vị sẽ: Mắt nhìn hình sắc, trong chẳng có, Tai vẳng chuyện đời, tâm chẳng hay! (Nhãn quán hình sắc, nội vô hữu Nhĩ thính trần sự, tâm bất tri.) Khi mắt nhìn biết bao hình sắc mà trong lòng chẳng thấy có gì hiện hữu và tai nghe những âm thanh êm dịu mà tâm trí lại không hay không biết gì cả, tức là đã có được chút “hỏa hầu.” Tâm phải không dao động, không một ý nghĩ nào dấy khởi, dục-niệm phải hoàn toàn không còn nữa, thì mới là đúng thật. Nếu có những lúc quý vị vẫn còn tơ tưởng đến phái nữ, thì vẫn chưa được. Có một người nọ sau khi khai ngộ rồi thì tới báo cho Sư-phụ của mình biết và thỉnh ngài khai thị ấn chứng. Vị Sư-phụ hỏi: “Ông khai ngộ cái gì thế?” Anh ta thưa: “Ồ! Trước kia con hoàn toàn không hiểu, nhưng nay thì con biết được rằng sư-cô là đàn bà!” Thì ra bây giờ anh ta mới biết rằng sư-cô, tức là Tỳ-khưu-ni, là đàn bà! Vị Sư-phụ bèn dùng Phật-nhãn để quán xét: “Ờ! Người này quả thật đã khai ngộ rồi,” và liền ấn chứng cho anh ta: “Ông được rồi đó!” Hẳn quý vị sẽ nghĩ: “Ai mà không biết điều đó?” Thế nhưng, người chưa khai ngộ thì sẽ không nói được câu ấy. Nhờ được khai ngộ rồi, cho nên người đệ tử này mới thốt ra một câu như thế! Vả lại, anh ta không thể nào dối gạt người khác được, vì Sư-phụ của anh ta có Phật-nhãn, ngài đã dùng Phật-nhãn quán sát và biết được đệ tử của mình đã đắc Đạo, đã chứng được Sơ-quả A-la-hán, nên ngài mới ấn chứng cho, nói rằng: “Đúng vậy!” Kinh Văn: Hán Việt: “Nhữ dĩ dâm thân, cầu Phật diệu quả, túng đắc diệu ngộ, giai thị dâm căn, căn bản thành dâm, luân chuyển Tam-đồ, tất bất năng xuất. Như Lai Niết-bàn, hà lộ tu chứng?” Việt: “Ông lấy dâm-thân mà cầu diệu-quả của Phật, cho dẫu có đắc diệu-ngộ thì cũng đều là dâm-căn. Căn bổn đã thành dâm, tất phải luân chuyển trong Tam-đồ, không thoát ra được. Thế thì Niết-bàn của Như-Lai do đường nào mà tu chứng?” Giảng nghĩa: Đức Phật dạy ngài A-Nan: “Ông có thích cô con gái của Ma-Đăng-Già ấy, như thế có nghĩa là không những tâm dâm dục mà ngay cả cái thân dâm dục của ông đều vẫn còn tồn tại. Ông lấy dâm-thân mà cầu diệu quả của Phật, cho dẫu có đắc diệu-ngộ thì cũng đều là dâm-căn. Nếu ông dùng cái thân dâm dục để cầu mong chứng đắc quả vị nhiệm mầu của Phật, cho dù ông có đạt được đạo lý vi diệu đi chăng nữa, thì cũng còn vướng mắc cái gốc rễ dâm dục mà ông chưa chặt bỏ được. Căn bổn đã thành dâm, tất phải luân chuyển trong Tam-đồ, không thoát ra được. Với cái gốc là dâm dục, thì tương lai ông nhất định sẽ bị đọa vào Tam-đồ. (“Tam-đồ” hay “Tam ác đạo,” tức là ba con đường xấu ác--địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.) Như thế, ông dứt khoát không thể nào ra khỏi ba đường ác ấy được, mà chắc chắn sẽ bị chuyển thân sanh làm súc sanh, ngạ quỷ, hoặc đọa địa ngục. Thế thì Niết-bàn của Như-Lai do đường nào mà tu chứng? Vậy ông căn cứ vào cái gì, nương theo con đường nào để có thể chứng được quả vị Niết-bàn của Phật?” Kinh Văn: Hán Việt: “Tất sử dâm cơ thân tâm câu đoạn, đoạn tánh diệc vô, ư Phật Bồ-đề tư khả hy ký.” Việt: “Phải làm cho dâm-cơ của thân và tâm đều dứt, và tánh ‘dứt’ ấy cũng không còn, thì mới mong đạt được quả Bồ-đề của Phật.” Giảng nghĩa: “Phải làm cho dâm-cơ của thân và tâm đều dứt. Ông nhất định phải dứt bỏ dâm-cơ của thân và dâm-cơ của tâm.” “Dâm cơ” tức là một niệm dâm dục nhỏ nhất, vi tế nhất. “Dâm cơ” cũng có nghĩa là vô minh; do đó, cần phải dứt trừ vô minh. “Và tánh ‘dứt’ ấy cũng không còn, ngay cả cái biết về tánh ‘dứt’ ấy ông cũng phải không được có nữa, như thế thì mới mong đạt được quả Bồ-đề của Phật, mới có thể nuôi hy vọng trên con đường giác ngộ của Phật vậy.” Kinh Văn: Hán Việt: “Như ngã thử thuyết, danh vi Phật thuyết; bất như thử thuyết, tức Ba-Tuần thuyết.” Việt: “Như lời Ta nói đây mới gọi là lời Phật nói; nếu chẳng nói như vậy, tức là lời của Ma Ba-Tuần.” Giảng nghĩa: “Như lời Ta nói đây mới gọi là lời Phật nói; nếu chẳng nói như vậy, tức là lời của Ma Ba-Tuần. Những lời như Ta giảng đây mới đích thực là Pháp do Phật nói ra. Nếu lời nói không phù hợp với đạo lý của Ta thì đó là lời của Ma-vương vậy.” “Ba-Tuần” là tiếng Phạn, có nghĩa là “ác giả,” kẻ ác. Ma Ba-Tuần tức là Ma-vương, vua của loài ma. Người đến nghe Kinh nhất định là đều sáng mắt. Người mù thì không thể đến nghe Kinh, cả người điếc và người câm cũng đều không thể đến để nghe Kinh được. Những kẻ đến đây nghe Kinh thì đều càng nghe càng thông minh, chứ không phải càng nghe càng ngu si. Do đó, bây giờ mọi người nên mở con mắt trí huệ chân chánh của mình ra và hướng nhĩ-căn chân chánh của mình vào trong để lắng nghe tự tánh, chứ đừng lăng xăng tìm kiếm ở bên ngoài nữa. Đó là tất cả những gì tôi muốn nói với quý vị trong ngày hôm nay!

Bốn Điều Răn Dạy Minh Bạch Về Tánh Thanh Tịnh 1

Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh (Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối) trong Kinh Lăng Nghiêm là: "Ðoạn dâm, Ðoạn sát, Ðoạn thâu, Ðoạn vọng" (dứt dâm dục, dứt giết chóc, dứt trộm cắp, dứt nói dối). Bốn điều đó tương quan rất chặt chẽ với nhau. Nếu phạm giới dâm thì dễ dàng phạm giới sát và cũng dễ dàng phạm giới thâu, tức là ăn cắp, và giới vọng ngữ tức là nói láo. Bởi vì phạm giới dâm thì sát, đạo, vọng, đều đã bao gồm trong đó rồi, cho nên tuy chia làm bốn, nhưng hợp lại mà nói thì là nhất thể! Phật thật là vô cùng từ bi, hết lòng hết dạ dạy bảo chúng ta hết sức rõ ràng Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh.


Hòa Thượng Tuyên Hóa DẪN NHẬP BỐN ÐIỀU RĂN DẠY VỀ TÁNH THANH TỊNH CHÂN THẬT, KHÔNG HƯ DỐI (Vạn Phật Thánh Thành ngày 17 tháng 4 năm 1983) Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh (Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối) trong Kinh Lăng Nghiêm là: "Ðoạn dâm, Ðoạn sát, Ðoạn thâu, Ðoạn vọng" (dứt dâm dục, dứt giết chóc, dứt trộm cắp, dứt nói dối). Bốn điều đó tương quan rất chặt chẽ với nhau. Nếu phạm giới dâm thì dễ dàng phạm giới sát và cũng dễ dàng phạm giới thâu đạo (tức là ăn cắp), và giới vọng ngữ (tức là nói láo). Bởi vì phạm giới dâm thì sát, đạo, vọng, đều đã bao gồm trong đó rồi, cho nên tuy chia làm bốn, nhưng hợp lại mà nói thì là nhất thể! Phật thật là vô cùng từ bi, hết lòng hết dạ dạy bảo chúng ta hết sức rõ ràng Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh. Tuy nói rõ như vậy, nhưng có người lại không tin. Không phải chỉ có một số người không tin mà thôi, trong đó, những kẻ không tin lại là những học giả, những vị giáo sư, những kẻ xuất gia không giữ giới luật. Những người đó không có niềm tin nên không có cách gì cải thiện, cũng không cách gì để bài trừ cái gốc tà kiến của họ được; bởi vì những điều hiểu biết sai lầm của họ đã chằng chịt, thâm căn cố đế, làm cho họ mất lòng tin và công nhiên cho rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả tạo! Trong các bộ kinh mà Phật nói ra, Kinh Lăng Nghiêm là một bộ kinh hết sức trọng yếu. Dù cho các vị học giả, giáo sư, những kẻ không giữ giới luật, cho đến những kẻ dùng đủ thứ thần thông, hiện ra mười tám phép biến hóa, tới nói với tôi rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả đi nữa, thì tôi cũng không tin được! Tại vì sao? Bởi vì Kinh Lăng Nghiêm dạy những đạo lý hết sức chân chính, chỉ căn bịnh của chúng sinh hết sức rõ ràng; đó là "vô minh tội nghiệp." Kinh này chính là "đối bịnh cho thuốc," là lời khuyên răn rõ ràng nhất. Song người ta không ai muốn uống thuốc đắng, mặc dù thuốc hay thì quá đắng, khó mà chịu nổi. Nên dù có bậc thầy thuốc giỏi đưa toa thuốc ra thì họ cũng vất đi không dùng, nói rằng thuốc chẳng có hiệu lực gì, rằng thứ thuốc này chỉ để lừa người ta. Như vậy đúng là tự mình lừa mình và lừa người khác, tự mình làm hại mình rồi hại người khác vậy! Bởi vậy cho nên những kẻ không hiểu biết cứ chạy theo những người này, nói rằng có những vị học giả danh tiếng như vầy, có những nhà giáo sư nổi tiếng như kia, hoặc có những vị Ðại Pháp Sư có tên tuổi như nọ nói rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả; rồi họ chạy theo những người đó như những kẻ đui đi theo những người mù, cùng nhau kẻ xướng người họa. Người ta nói làm sao thì họ nói theo làm vậy, do đó rốt cuộc tà thuyết đầy dẫy. Nếu thật sự đúng như vậy, tức Kinh Lăng Nghiêm là giả, thì các vị trong Phật Giáo không cần phải giữ giới luật làm gì, cũng không cần nghe Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh này làm gì, và cũng không cần biết đến Năm Mươi Thứ Ấm Ma là ra sao, tất cả mọi thứ đều nhất tề vất bỏ hết! Các vị thử nghĩ coi, loại người như vậy thật là ác độc vô cùng; nếu những người như thế mà không bị xuống Ðịa ngục Cắt Lưỡi thì thật là không còn công lý gì nữa! Vừa rồi tôi có đề cập đến các trẻ em tâm lý biến thái (Autistic children - trẻ em có hành vi kỳ quặc). Những trẻ em này vì đã tạo nghiệp tội đáng phải đọa địa ngục Vô Gián - hủy báng kinh điển Ðại Thừa - nên mới phải nhận lãnh thứ quả báo đáng sợ này. Ðó cũng là vì loài người chúng ta không hiểu đạo lý, lại còn tự cho mình là hay là giỏi, rồi công nhiên tạo ra đủ thứ tội nghiệp, còn trợn tròn mắt mà nói láo. Hành động như vậy thật là mất hết lương tri, lương năng, làm cho bản hữu trí huệ của mình bị hủy diệt; thật đáng thương thay! Bởi những kẻ hủy báng kinh điển Ðại Thừa đó đã dùng tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý của họ để tạo ra đủ thứ ác nghiệp, nên khi họ sinh làm người thì thành những kẻ mắc bịnh tâm lý biến thái, trở nên vô tri, vô giác, đến khi thọ ác báo rồi, lại còn cho rằng mình là hay là giỏi lắm! Chúng ta không nên dùng cái "thông minh giả" của mình mà hủy báng lời Phật dạy. Nào là những kẻ rất có tiếng tăm, nào là những nhà học giả trứ danh, nào là những vị giáo sư uyên bác, nào là các vị Pháp Sư nổi tiếng, một khi họ nói ra lời hủy báng Phật Pháp thì vô hình trung, lời nói của họ sẽ ảnh hưởng đến trăm ngàn vạn ức, vô lượng, vô biên người khác, khiến cho những người đó đánh mất đi lòng tin chơn chính. Cho nên quý vị thấy, tạo ra tội nghiệp như vậy không phải là tai hại vô cùng sao? Trăm ngàn kiếp về sau, họ sẽ phải đầu thai làm kẻ thọ quả báo, trở thành những người câm! Bởi vì họ làm hại tri kiến của kẻ khác, nói lên những lời khiến kẻ khác hiểu lầm đạo lý, như thế thật là vô cùng nguy hại! Quý vị hãy nghĩ coi, vì sao những người đó cho rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả tạo? Là bởi vì họ không thể theo đúng được Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh: Không dâm dục thì họ không thể làm được, không sát sinh thì họ cũng chẳng làm nổi! Không trộm cắp thì bề mặt có thể nói rằng họ không trộm cắp, nhưng thực sự có rất nhiều học giả, giáo sư thường lấy trộm văn chương của học sinh hay của kẻ khác rồi vá víu lại để làm của mình; nếu đem vật sở hữu của kẻ khác làm của mình thì đó chính là trộm cắp vậy! Nếu một ngày nào mà họ nói những lời lừa dối học sinh thì ngày đó họ đã nói láo rồi! Ðương nhiên không phải tất cả những vị học giả hay giáo sư đều như vậy, song ở trong hàng ngũ những người đạo đức luôn luôn có vô số những kẻ gian dối tác hại. Bởi vì không làm theo đúng được Bốn Ðiều Răn Dạy Về Tánh Thanh Tịnh đó nên họ sợ hãi, và không thể chấp nhận lý luận trong Kinh được. Nếu họ chấp nhận lý luận của Kinh thì họ không thể tồn tại, và dĩ nhiên họ sẽ mất đi địa vị của họ. Nhưng họ lại không muốn như vậy nên mới làm trái với lương tâm, mới nói rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả. Khi có ý nghĩ như vậy là họ đã phạm tội lớn tày trời: "Khoát đạt không, Bát nhân quả, Mãng mãng đãng đãng, Chiêu ương họa." Nghĩa là: "Phủ nhận mọi thứ, Bác bỏ nhân quả, Thô suất phóng túng, Tự chuốc tai ương." Trong tương lai họ sẽ thọ lãnh quả báo đọa địa ngục Vô Gián, lúc đó họ có hối lỗi thì không còn kịp nữa! Kinh Văn: Hán Việt: A-Nan chỉnh y phục, ư đại chúng trung, hợp chưởng đảnh lễ, tâm tích viên minh, bi hân giao tập, dục ích vị lai chư chúng sanh cố, khể thủ bạch Phật: “Đại bi Thế Tôn! Ngã kim dĩ ngộ Thành Phật Pháp-môn, thị trung tu hành, đắc vô nghi hoặc.” Việt: Ngài A-Nan sửa y phục cho chỉnh tề, rồi từ chỗ đại chúng chắp tay đảnh lễ. Tâm địa sáng suốt, vừa buồn vừa vui, và vì muốn lợi ích cho chúng sanh đời sau, nên ngài cúi lạy và thưa với Phật: “Bạch Đức Thế Tôn đại từ bi! Con nay đã tỏ ngộ Pháp-môn Thành Phật, trong sự tu hành được không còn nghi hoặc.” Giảng nghĩa: Ngài A-Nan sửa y phục cho chỉnh tề. Sau khi nghe Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi nói xong bài kệ, ngài A-Nan đứng dậy và sửa y phục cho chỉnh tề - vuốt vạt áo lại cho thẳng nếp, kéo cổ áo lại cho ngay ngắn, chứ không để cho có vẻ xốc xếch, lôi thôi. Rồi từ chỗ đại chúng chắp tay đảnh lễ. Chỉnh đốn y phục xong, ngài A-Nan từ trong chỗ đại chúng chắp tay lại và hướng về phía Đức Phật mà lạy. Tâm địa sáng suốt. Lúc này, tâm trí ngài A-Nan rất “viên minh,” sáng suốt, chứ không hồ đồ như trước nữa; và ngài lại cảm thấy vừa buồn vừa vui, vừa muốn khóc mà lại muốn cười. “Buồn”, tức là muốn khóc. Ngài A-nan rất dễ khóc; ngài đã khóc rất nhiều lần kể từ phần đầu của bộ kinh. Bây giờ ngài vẫn muốn khóc nữa, nhưng đồng thời lại cũng muốn cười – hai trạng thái buồn và vui xen lẫn với nhau. “Buồn” (bi), ngài A-Nan buồn chuyện gì? Trường hợp này gọi là “vui quá hoá buồn” (lạc cực sanh bi) – ngài vui mừng quá đỗi: “Vậy là mình đã có được Phật Pháp! Mình đã hiểu được Phật Pháp chân chánh rồi!” Vui đến cực điểm thì sanh ra buồn. “Vui” (hân), ngài A-Nan vô cùng vui mừng, từ trước đến nay ngài chưa bao giờ cảm thấy vui mừng đến thế. Bởi được chân chánh hiểu rõ Phật Pháp là một điều đáng vui mừng nhất, cho nên ngài A-Nan mới “vừa buồn vừa vui” như vậy. Và vì muốn lợi ích cho các chúng sanh đời sau, nên ngài cúi lạy và thưa với Phật... Song, nếu chỉ có riêng mình hiểu được mà thôi thì ngài A-Nan thấy vẫn còn chưa đủ; ngài còn muốn làm lợi ích cho tất cả chúng sanh trong đời vị lai nữa. Do đó, ngài sụp lạy Đức Phật rồi nói rằng: “Bạch Đức Thế Tôn đại từ bi! Con nay đã tỏ ngộ Pháp môn Thành Phật. Bây giờ con đã thấu hiểu được Pháp-môn để thành Phật này rồi.” “Tỏ ngộ” có nghĩa là hiểu rõ, thông suốt. “Trong sự tu hành được không còn nghi hoặc. Con tuyệt đối không bao giờ còn nghi chấp gì về phương pháp tu hành này nữa.” Kinh Văn: Hán Việt: “Thường văn Như Lai thuyết như thị ngôn: ‘Tự vị đắc độ, tiên độ nhân giả, Bồ-tát phát tâm. Tự giác dĩ viên, năng giác tha giả, Như-Lai ứng thế.’ Ngã tuy vị độ, nguyện độ Mạt-kiếp nhất thiết chúng sanh.” Việt: “Con thường nghe Như-Lai dạy như vầy: ‘Chính mình chưa được độ mà độ cho người khác trước, ấy là Bồ-tát phát tâm. Phần tự-giác đã viên mãn lại có thể thức tỉnh kẻ khác, đó là Như-Lai ứng thế.’ Con tuy chưa tự độ được, nhưng con nguyện sẽ độ tất cả chúng sanh trong thời Mạt-kiếp.” Giảng nghĩa: “Con thường nghe Như-Lai dạy như vầy ....” Ngài A-Nan thường lấy lời của Phật để dẫn chứng cho những điều mà ngài muốn đề cập tới. Ở đây, ngài A-Nan nói ngài được nghe Đức Phật lúc thuyết Pháp có dạy rằng: “Chính mình chưa được độ mà độ cho người khác trước, ấy là Bồ-Tát phát tâm. Bản thân mình tuy chưa được độ thoát, chưa đắc Đạo, nhưng lại biết hóa độ cho kẻ khác trước – đó chính là sự phát tâm của bậc Bồ-tát vậy. Và, “phần tự giác đã viên mãn lại có thể thức tỉnh kẻ khác, đó là Như-Lai ứng thế.” Khi sự giác ngộ của chính mình đã được trọn vẹn, bèn vận dụng các đạo lý mà mình tự giác ngộ được để thức tỉnh những người khác, khiến cho họ cũng trở nên giác ngộ - đó chính là công việc của Phật, là những gì Phật làm khi ứng thân ở thế giới này vậy. Ngài A-Nan thưa tiếp: “Con tuy chưa tự độ được, nhưng con nguyện sẽ độ tất cả chúng sanh trong thời Mạt kiếp. Bản thân con vẫn chưa được độ, chưa đắc Đạo, tuy nhiên, con mong rằng hết thảy chúng sanh thời Mạt-kiếp đều được độ thoát, đều được hưởng những lợi ích của Phật Pháp.” Kinh Văn: Hán Việt: “Thế Tôn! Thử chư chúng sanh, khứ Phật tiệm viễn; tà sư thuyết pháp, như Hằng-hà sa. Dục nhiếp kỳ tâm, nhập Tam-ma-địa, vân hà linh kỳ an lập đạo tràng, viễn chư ma sự, ư Bồ-đề tâm đắc vô thối khuất?” Việt: “Bạch Đức Thế Tôn! Các chúng sanh ấy cách Phật xa dần, mà tà-sư thuyết pháp thì nhiều như cát sông Hằng. Con muốn cho các chúng sanh ấy biết nhiếp tâm và nhập Tam-ma-địa. Vậy, làm thế nào để khiến họ được an lập nơi đạo tràng, lánh xa mọi ma sự và tâm Bồ-đề được không thối khuất?” Giảng nghĩa: “Bạch Đức Thế Tôn! Các chúng sanh ấy cách Phật xa dần. Tất cả chúng sanh trong thời Mạt Pháp ấy dần dần cách xa Đức Phật, thậm chí cũng cách xa cả Phật Pháp nữa, mà tà-sư thuyết pháp thì nhiều như cát sông Hằng.” Hiện tại chính là thời đại “tà-sư thuyết pháp.” Thế nào gọi là “tà sư”? Họ là hạng người không hiểu mà nói hiểu, chưa khai ngộ mà tự xưng là đã khai ngộ, chưa chứng quả vị mà tự xưng là đã chứng quả vị. Có lần tôi hỏi một người cũng huênh hoang như thế rằng: “Ông đã chứng Sơ-quả, Nhị-quả, Tam-quả, hay là Tứ-quả? Ông đã chứng được quả vị nào vậy? Ông khai ngộ rồi ư? Ông khai ngộ cái gì vậy? Ông nói ông đã chứng quả, chẳng hay là chứng cái ‘quả’ chi?”; thì ông ta chỉ lặng thinh không đáp! Tôi lại hỏi: “Ông đã là Phật rồi thì tại sao ngay cả quả vị mà ông còn chưa chứng đắc? Ông làm cách nào mà chạy đến chỗ Phật được thế?” Ông ta chẳng những tự phong cho mình là Phật mà còn tuyên bố rằng “everybody is a Buddha,” mọi người đều là Phật cả rồi! Những người như thế được gọi là “tà sư” - họ đã phạm phải tội “đại vọng ngữ,” một tội nói dối rất nghiêm trọng ! Người Trung-Hoa gọi hạng người chuyên môn khoe khoang, khoác lác là “đại pháo” (súng đại bác), nói theo tiếng Quảng-đông là “xa đại pháo.” Vì để hộ trì Phật Pháp, cho nên bất luận quý vị có hiểu Phật Pháp hay không, hãy nhớ là đừng bao giờ làm tà-sư! Có một nữ cư sĩ họ Lý nọ, khi có người hỏi về Phật Pháp thì bà đáp: “Tôi già cả rồi, tôi quên hết rồi!” Bà ta hoàn toàn không hề học tới, thế thì làm sao mà “quên” được? “Quên” cái gì? Có biết gì đâu để mà “quên”!? Bà ta hiển nhiên là chẳng hiểu gì cả, nhưng vì không muốn thú nhận là mình không hiểu nên mới nói tránh là “quên rồi.” Đó chẳng qua là luận điệu dối gạt thiên hạ mà thôi! “Tri chi vi tri chi” – biết tức là biết, không biết tức là không biết. Chớ nên hoàn toàn không hiểu gì cả mà lại nói là mình “quên”, bởi vì như thế thì cũng gần như là “tà-sư” rồi! Tà-sư khi nói chuyện thì chuyên môn có tâm phan-duyên và giảng toàn những điều sai trái, không đúng đắn. Chẳng hạn như dâm dục là không đúng, thì họ lại tán dương: “Đúng! Đó là pháp môn kỳ diệu nhất,” khiến cho người ta bị rối trí, mê muội, không thể tìm thấy chân lý. Lấy phải làm trái, đúng nói không đúng, không đúng nói đúng - những kẻ như thế gọi là tà sư. Đầu óc họ đầy dẫy những tà tri tà kiến; cái biết và cái thấy của họ đều không chánh đáng – cái gì “chánh” thì họ nói là không đúng, còn cái gì “tà” thì họ lại bảo là hay nhất! Ngài A-Nan bạch với Đức Phật rằng: “Vào thời Mạt Pháp, số tà-sư thuyết pháp sẽ nhiều như cát sông Hằng. Thế nhưng, vào thời điểm đó, con muốn cho các chúng sanh ấy biết nhiếp tâm, sanh khởi chánh tri chánh kiến, và nhập Tam-ma-địa, đắc được Chánh-định. Vậy, làm thế nào để khiến họ được an lập nơi đạo-tràng, lánh xa mọi ma-sự? Làm thế nào mới có thể khiến cho các chúng sanh ấy được sống yên ổn ở chốn đạo tràng và tránh được mọi ma sự?” Có nhiều kẻ thuộc tà ma ngoại đạo chuyên nói những lời gạt gẫm, lừa đảo người khác. Họ nói về vấn đề sắc dục giữa nam nữ và còn bảo rằng hễ dục vọng càng nặng bao nhiêu thì thành Phật càng nhanh bấy nhiêu! Điều đó hoàn toàn sai lầm, và đó chính là một thứ tà tri tà kiến! Vì vậy, mọi người phải đặc biệt chú ý đến điểm này, đừng để bị mắc lừa! Đối với Phật Pháp chân chánh thì nói chuyện dâm dục là sai, là không phải Phật Pháp; lối nói ấy chính là “ma sự” vậy! “Và tâm Bồ-đề được không thối khuất?” Làm thế nào để tâm Bồ-đề của các chúng sanh trong thời Mạt-kiếp khỏi bị thối thất nữa? Có nhiều người học Phật nhưng học chưa được bao lâu thì tâm Bồ-đề của họ đã thối chuyển; họ than vãn: “Chịu thôi! Tôi không muốn học Phật Pháp nữa! Học Phật Pháp sao mà khó thế, cứ toàn là phải trừ bỏ những thói hư tật xấu. Tôi không dứt bỏ được các thói hư tật xấu thì biết phải làm sao bây giờ?” Thế là họ bỏ cuộc, không học Phật Pháp nữa. Đó gọi là bị “thối thất Bồ-đề tâm” – cái tâm Bồ-đề đã thối chuyển, đã rút lui rồi. “Khuất” là khuất phục, nghĩa là không còn lòng tinh tấn, hăng hái nữa; và cũng có nghĩa là bại trận, thua cuộc. Như khi Nhật-Bản đầu hàng (trong Đệ Nhị Thế Chiến) tức là họ đã chịu khuất phục vậy. Không có chí khí, để cho ma quỷ chiến thắng – đó cũng gọi là chịu khuất phục. Vậy thì làm thế nào mới có thể khiến cho các chúng sanh trong thời Mạt-kiếp không còn bị thối thất tâm Bồ-đề nữa? Kinh Văn: Hán Việt: Nhĩ thời Thế Tôn, ư đại chúng trung, xưng tán A Nan : “Thiện tai! Thiện tai! Như nhữ sở vấn an lập đạo tràng, cứu hộ chúng sanh Mạt-kiếp trầm nịch; nhữ kim đế thính, đương vị nhữ thuyết.” A Nan , đại chúng, duy nhiên phụng giáo. Việt: Bấy giờ Đức Thế-Tôn khen ngợi ngài A-Nan ngay giữa đại-chúng: “Lành thay! Lành thay! Như ông vừa hỏi về sự an lập đạo tràng và cứu giúp những chúng sanh bị chìm đắm trong thời Mạt-kiếp; nay ông hãy lắng nghe, Ta sẽ vì ông mà nói.” Ngài A-Nan và đại-chúng đồng vâng theo lời dạy. Giảng nghĩa: Bấy giờ Đức Thế Tôn khen ngợi ngài A-Nan ngay giữa đại-chúng. “Bấy giờ” tức là ngay sau khi Đức Thế-Tôn nghe ngài A-Nan thỉnh vấn về việc làm thế nào để chúng sanh thời Mạt-kiếp có thể lánh xa các tà-sư thuyết pháp, tránh được mọi ma-sự, và không bị thối thất tâm Bồ-đề nữa. Học Phật Pháp, quan trọng nhất là không được mới học có vài ba hôm là muốn nghỉ, không học nữa; mà cần phải luôn luôn và mãi mãi có lòng tinh tấn: “Tôi muốn học Phật Pháp. Đời đời kiếp kiếp, tôi lúc nào cũng muốn học Phật Pháp.” Ngoài ra, cần phải lập nguyện nhất định hộ trì Phật giáo, nhất định tu hành và học tập Phật Pháp – cái tâm Bồ-đề này phải vĩnh viễn không bao giờ thối chuyển. Song, làm thế nào để được như thế? Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tỏ ra vui mừng khi nghe ngài A-Nan hỏi về vấn đề này. Vì sao Đức Phật vui mừng? Tuy nói rằng Phật thì “như như bất động,” nhưng khi có người phát tâm muốn ủng hộ Phật Pháp và giúp cho kẻ khác thành Phật, thì Phật cũng thấy vui mừng, cũng thấy hoan hỷ! Do đó, Đức Phật khen Tôn-giả A-Nan ngay trước toàn thể đại chúng rằng: “Lành thay! Lành thay! A-Nan khá lắm! A-Nan khá lắm!” Đức Phật nói “lành thay, lành thay” như thế tức là tấm tắc khen ngợi ngài A-Nan hai lần: “Ông khá lắm! Ông quả thật là một đệ tử tốt!” “Như ông vừa hỏi về sự an lập đạo-tràng và cứu giúp những chúng sanh bị chìm đắm trong thời Mạt-kiếp. Vào thời Mạt-kiếp (Mạt Pháp), nếu ông muốn cứu vớt những chúng sanh bị chìm đắm trong cảnh “nước sôi lửa bỏng,” thì nay ông hãy lắng nghe, Ta sẽ vì ông mà nói. Bây gìờ ông hãy chú ý nghe cho kỹ, Ta sẽ giảng cho ông rõ.” Ngài A-Nan và đại-chúng đồng vâng theo lời dạy. Ngài A-Nan nghe Phật sắp thuyết Pháp thì càng vui mừng hơn nữa, cho nên ngài và đại-chúng đều đồng lòng vâng lời Phật dạy. Ắt hẳn là lúc bấy giờ Đức Phật hỏi: “Các ông có muốn nghe chăng?”; và mọi người đồng thanh đáp: “Bạch Đức Thế Tôn! Tất cả chúng con đều muốn được nghe!”--ai nấy cùng nhau “y giáo phụng hành.” Tà-sư khi nói pháp thì chuyên môn nói về chuyện dâm dục, và những điều họ nói đều không đúng với đạo lý - về điểm này, mọi người cần phải biết phân biệt cho rõ ràng. Ở cảnh giới của bậc Bồ-tát, lắm lúc các ngài cũng dùng cái tâm “từ bi ái hộ chúng sanh.” Vì biết rằng tất cả chúng sanh đều có dục niệm rất nặng nề, cho nên ngay từ lúc mới bắt đầu giáo hoá họ, bậc Bồ-tát không đòi hỏi họ phải đoạn tuyệt lòng ái-dục (hay tâm dâm dục) liền, mà chỉ dùng vô số pháp môn phương tiện để làm cho họ tự có cái nhìn thấu đáo về dâm dục, rồi tự ý đình chỉ cái tâm ấy. Đó là cảnh giới của bậc Bồ-tát, hoàn toàn khác hẳn với cảnh giới của hàng tà-sư ngoại đạo; vì vậy, mọi người cần phải hiểu cho tường tận điểm này. Có lần Quán-Thế-Âm Bồ-tát thị hiện làm một người con gái cực kỳ xinh đẹp đến nỗi tất cả đàn ông vừa gặp mặt cô là sanh lòng yêu thích ngay. Nhân đó, cô bảo họ niệm Phật, tu hành, và rốt cuộc đã khiến cho những chúng sanh ấy đều được thành Phật. Trước kia, lúc giảng Phẩm Phổ-Môn (trong Kinh Pháp Hoa), tôi cũng có nhắc đến chuyện “Quán Âm Bán Cá.” “Quán-Âm Bán Cá” là chuyện về một thiếu nữ vô cùng xinh đẹp, thường mang giỏ cá đi bán trong một ngôi làng mà cư dân vốn hoàn toàn không tin theo đạo Phật. Khi gặp một cô gái đẹp đẽ như thế thì trai tráng trong làng đều nổi lòng tham, người nào cũng ao ước được cưới cô làm vợ. Tuy rằng dân trong làng ấy không đông lắm nhưng cũng có tới trên một trăm thanh niên, vì thế cô gái “Quán-Âm Bán Cá” bèn nói với họ: “Phận tôi thân gái không thể nào kết hôn cùng cả trăm người được, vậy giờ tôi xin dùng cách này để kén chồng: Trong hơn một trăm quý ông đây, hễ người nào học thuộc được Phẩm Phổ-Môn trước nhất thì tôi sẽ kết duyên với người ấy. Bây giờ quý ông hãy về nhà mà học đi, tôi cho quý ông thời hạn là ba ngày thôi đấy.” Thế là hơn một trăm thanh niên, người nào cũng lấy một bản Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Quán-Thế-Âm Bồ-Tát Phổ-Môn Phẩm (tức là phẩm thứ hai mươi lăm của bộ Kinh Pháp Hoa) để về học. Hết kỳ hạn ba hôm thì có khoảng bốn, năm chục người đã thuộc được; như vậy là hơn một trăm người “dự thi” lúc ban đầu thì bây giờ còn lại khoảng một nửa. Người này nói đã thuộc rồi, người kia cũng bảo đã học xong; tất cả có hơn năm mươi người học thuộc được Phẩm Phổ-Môn. “Quán-Âm Bán Cá” bèn nói: “Bây giờ vẫn còn quá nhiều. Mặc dù hơn năm mươi quý ông đây đều thuộc Phẩm Phổ-Môn cả, song tôi không thể kết hôn với cả năm mươi người được! Tôi chỉ có thể kết hôn với một người mà thôi. Thôi thì bây giờ quý ông hãy trở về đi, tôi lại cho quý ông thời hạn năm ngày để học Kinh Kim-Cang, ai thuộc được thì tôi sẽ cùng người ấy kết duyên.” Hơn năm mươi “thí sinh” ấy quay về và miệt mài học Kinh Kim Cang; và sau năm ngày thì có hơn hai mươi người đã học thuộc. Thiếu nữ bán cá lại nói: “Thế này thì vẫn còn đông quá, tôi không thể kết hôn với nhiều người như vậy được. Bây giờ tôi lại có một điều kiện: Tôi kỳ hạn cho quý ông bảy ngày, hễ ai học thuộc được bộ Kinh Pháp Hoa thì tôi sẽ kết hôn với người ấy. Lần này, tôi tin rằng người học thuộc sẽ được toại nguyện.” Như thế là hơn hai mươi người này và luôn cả những người đã dự thi khi trước lại cùng nhau cặm cụi học Kinh Pháp Hoa; và nội trong bảy ngày thì có một người có thể tụng nhuần nhuyễn và thuộc nằm lòng được trọn bộ kinh. Người này họ Mã, xuất thân từ một gia đình rất giàu có. Anh ta nói là mình đã “trúng tuyển,” chắc chắn sẽ cưới được cô gái bán cá xinh đẹp, nên gởi thiệp mời thân thuộc đến dự lễ thành hôn của mình. Không ngờ sau lễ gia tiên, vừa vào phòng tân hôn thì cô gái xinh đẹp ấy lại bị lên cơn đau tim mà chết. Chàng thanh niên họ Mã đã hao tổn biết bao tinh thần - học thuộc Phẩm Phổ Môn, Kinh Kim Cang, Kinh Pháp Hoa - mới cưới được vợ, thế mà vừa vào phòng tân hôn thì cô dâu lại đột ngột ngã ra chết! Khi đưa đám tang cô gái ấy thì có một vị Sư mặc áo dài màu đỏ tía xuất hiện và hỏi: “Chẳng hay quý vị đang làm gì vậy?” Tang gia đáp: “Cô dâu mới cưới về bỗng dưng mắc bệnh mà chết đột ngột, bây giờ chúng tôi đang đưa đám cô ta đây!” Vị Sư nói: “Không đúng! Cỗ quan tài kia hoàn toàn trống rỗng, sao lại bảo là có người chết nằm trong đó? Quý vị không tin thì hãy mở ra xem đi!” Mở nắp quan tài ra thì bên trong quả nhiên trống không – thi hài của cô gái bán cá được đặt nằm trong áo quan bây giờ chẳng thấy đâu nữa! Thấy thế, ai nấy đều kinh ngạc bảo nhau: “Vậy thì cô ấy đi đâu? Hãy mau mau đuổi theo! Phải tìm cho ra cô ấy và đưa về đây, nhanh lên!” Bấy giờ, vị Sư giải thích: “Thật ra cô gái ấy chính là Quán-Thế-Âm Bồ-tát thị hiện đấy. Bởi dân chúng ở địa phương này không tin Phật nên Bồ-tát mới thị hiện làm một thiếu nữ xinh đẹp khiến cho những kẻ háo sắc như các ông say mê mà chịu học Phật Pháp. Nay các ông đã chịu học rồi thì Bồ-tát ra đi thôi!” Nghe xong, “chú rể” họ Mã chợt tỉnh ngộ: “Ồ, thì ra là vậy!” Thế rồi, khi đã nhìn thấu suốt được mọi chuyện ở thế gian, anh ta quyết định xuất gia, tinh tấn tu hành và sau đó chứng được Thánh-quả. chuavanphat.org