Kinh Hoa Nghiêm Giảng Giải (15)
HT. Tuyên Hóa
Tổng Trì Ðại Quang Minh Thiên Vương, được môn giải thoát, Ðà la ni quang minh, ghi nhớ tất cả các pháp không quên mất.
Vị Tổng Trì Ðại Quang Minh Thiên Vương, có đại trí huệ, đại quang minh, tổng tất cả các pháp, trì vô lượng nghĩa. Bất cứ việc gì, không cần ép phải nhớ, chỉ cần qua tai mắt, thì vĩnh viễn không bao giờ quên. Vị này đắc được cảnh giới môn Ðà la ni quang minh.
Ghi nhớ giống như dùng tay cầm vật gì, nhớ rất rõ ràng, không quên. Ghi nhớ tất cả các pháp, tức là sắc pháp, tâm pháp, tâm sở pháp, bất tương ưng pháp, vô vi pháp. Những pháp này đều nhớ hết không quên. Làm thế nào để không quên mất ? Tức là xem Kinh điển cho nhiều, nghiên cứu Kinh điển, lâu dần thì tự nhiên sẽ khai mở đại trí huệ, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Bất Tư Nghì Huệ Thiên Vương, được môn giải thoát, phương tiện không nghĩ bàn, khéo vào tự tánh của tất cả nghiệp.
Vị Bất Tư Nghì Huệ Thiên Vương, có trí huệ không thể nghĩ bàn, giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh, cũng đắc được trí huệ không thể nghĩ bàn. Vị này đắc được một thứ tam muội, dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, để giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho họ phát bồ đề tâm, tu hạnh Bồ Tát. Ðều từ trong tự tánh sinh ra. Phương tiện pháp môn này khéo nhập vào tất cả nghiệp, để giáo hóa chúng sinh.
Luân Tề Thiên Vương, được môn giải thoát, phương tiện chuyển bánh xe pháp, để thành thục chúng sinh.
Vị Luân Tề Thiên Vương hiểu biết cảnh giới của đức Phật, chuyển bánh xe pháp giáo hóa chúng sinh. Chuyển bánh xe pháp, tức là giảng Kinh thuyết pháp, khiến cho chúng sinh thành quả vị Phật, đắc được vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vị này muốn khiến cho chúng sinh đắc được quả vị Phật vô thượng chánh đẳng chánh giác, cho nên trước dùng phương tiện pháp môn, quyền xảo phương tiện từ bi cứu độ, để giáo hóa chúng sinh.
Quang Diệm Thiên Vương được môn giải thoát, mắt rộng lớn quán sát khắp chúng sinh, mà đến điều phục.
Vị Quang Diệm Thiên Vương có quang minh màu lửa ngọn, do trí huệ mà thành tựu. Vị này đắc được mắt trí huệ rộng lớn. Mắt trí huệ này sinh ra ở chỗ nào ? Ở tại mỗi lỗ chân lông, cho nên vị này quán sát được khắp hết thảy chúng sinh, thấy chúng sinh nào cơ duyên thành thục thì, đến giáo hóa chúng sinh đó, khiến cho họ phát bồ đề tâm, chứng vô thượng đạo. Vị này quán sát mỗi chúng sinh khi nào độ được, thì lúc đó sẽ đến độ. Chúng sinh nào nên dùng thân gì để độ được, thì hiện thân đó để thuyết pháp.
Ví như, nên dùng thân Phật để độ được, thì hiện thân Phật để thuyết pháp cho họ nghe. Nên dùng thân Bồ Tát độ được, thì hiện thân Bồ Tát để thuyết pháp. Nên dùng thân A La Hán để độ được, thì hiện thân A La Hán để thuyết pháp. Nên dùng thân Ðế thích, tể tướng, trưởng giả, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ .v.v., độ được thì hiện các thứ thân để thuyết pháp. Cho nên vị này quán cơ đầu giáo, vì người thuyết pháp, dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, để điều phục chúng sinh, khiến cho chúng sinh bỏ tà về chánh, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Quang Chiếu Thiên Vương, được môn giải thoát, vượt khỏi tất cả nghiệp chướng, không thuận theo chỗ làm của ma.
Vị Quang Chiếu Thiên Vương này, phóng đại quang minh, chiếu sáng ba ngàn đại thiên thế giới, cho nên không tùy thuận theo chỗ của ma. Ma thuộc về đen tối, nhưng đại quang minh phá trừ đen tối. Vị này đắc được môn giải thoát vượt khỏi tất cả nghiệp chướng.
Tất cả nghiệp chướng có báo chướng và phiền não chướng. Nghiệp chướng tức là tạo tất cả nghiệp ác làm chướng ngại tâm tu đạo. Báo chướng tức là nghiệp đã tạo ra phải thọ quả báo, quả báo này cũng chướng ngại sự tu đạo. Làm súc sinh thì không dễ gì nghe Kinh nghe pháp, làm ngạ quỷ thì càng không dễ gì nghe được Phật pháp, những loại chúng sinh này không dễ gì tu đạo. Phiền não chướng tức là người tu đạo phiền não quá nhiều, cũng sẽ chướng ngại sự tu đạo. Tất cả chướng này đều gần với ma, nếu không cẩn thận thì sẽ lạc vào đường ma.
Vị Thiên Vương này dùng trí huệ để chiếu soi, chiến thắng ma quân, không tùy thuận chỗ làm của ma. Ma vương dạy đừng bố thí, nhưng vị này nhất quyết bố thí. Ma vương dạy đừng trì giới, nhưng vị này nhất định phải trì giới. Ma vương dạy đừng tinh tấn, vị này nhất định phải tinh tấn. Ma vương dạy nóng giận, nhưng vị này nhất định phải nhẫn nhục. Ma vương dạy đừng chuyển bánh xe pháp, vị này nhất định phải chuyển bánh xe pháp. Ma vương dạy đừng tham thiền, vị này nhất định tham thiền. Tóm lại, vị này không chuyển theo ma cảnh, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Phổ Quán Sát Ðại Danh Xưng Thiên Vương, được môn giải thoát, khéo dạy bảo tất cả các Thiên chúng, khiến cho họ tâm được thanh tịnh.
Vị Phổ Quán Sát Ðại Danh Xưng Thiên Vương quán sát khắp hết thảy tất cả các Thiên chúng. Vì tất cả các Thiên chúng quá sung sướng, dễ quên tu hành, cho nên vị Thiên Vương này dùng đủ thứ phương tiện pháp môn để dẫn dụ tất cả Thiên chúng, khiến cho họ hiểu Phật pháp, dạy bảo các Thiên chúng tiếp thọ Phật pháp, nhận chân tu hành, sinh tâm thanh tịnh, khử trừ vọng niệm hỗn tạp, đó là môn giải thoát vị này đắc được.
Bấy giờ, Thời Phần Thiên Vương nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả Thiên chúng Thời Phần mà nói ra bài kệ.
Lúc đó vị Thời Phần Thiên Vương, nương sức đại oai đức thần thông của đức Phật, quán sát khắp tất cả Thiên chúng Thời Phần (trời Dạ Ma) mà nói kệ tán thán công đức của Phật.
Phật trong vô lượng kiếp xa xưa
Ðã sạch biển ưu não thế gian
Chẳng còn nhiễm trần thanh tịnh đạo
Ðèn trí huệ luôn chiếu chúng sinh.
‘’ Phật trong vô lượng kiếp xa xưa.’’ Phật trong vô lượng vô biên kiếp về trước chẳng có ưu não.
‘’ Ðã sạch biển ưu não thế gian.’’ Phật trong vô lượng kiếp về trước, đã cạn sạch biển ưu não thế gian, chẳng còn chút ưu não nào tồn tại.
‘’ Chẳng còn nhiễm trần thanh tịnh đạo.’’ Phật dứt hết tất cả nhiễm ô thì đại đạo sẽ thanh tịnh.
‘’ Ðèn trí huệ luôn chiếu chúng sinh.’’ Ðạo thanh tịnh này vĩnh viễn chiếu soi tâm chúng sinh, trở thành đèn trí huệ tâm. Ðèn tâm này thường sáng không tắt, khiến cho chúng sinh hiểu được thế gian này là khổ nhiều vui ít, mà sớm thoát khỏi tam giới, đắc được khoái lạc vĩnh cửu.
Pháp thân Như Lai thật rộng lớn
Mười phương bờ mé không thể được
Tất cả phương tiện không hạn lượng
Diệu Quang Minh Thiên vào môn này.
‘’ Pháp thân Như Lai thật rộng lớn.’’ Pháp thân của Phật vô tại vô bất tại, đặc biệt rộng lớn, không bờ không mé, cũng có thể nói là tận hư không khắp pháp giới.
‘’ Mười phương bờ mé không thể được.’’ Nếu đi đến bờ mé mười phương, tìm pháp thân của Phật, thì tìm cũng chẳng được. Tại sao ? Vì pháp thân của Phật vượt qua mười phương.
‘’ Tất cả phương tiện không hạn lượng.’’ Tất cả phương tiện pháp môn của Phật, cũng không bờ không bến, chẳng có giới hạn nhất định.
‘’ Diệu Quang Minh Thiên nhập môn này.’’ Vị Diệu Quang Minh Thiên Vương có trí huệ vào được môn giải thoát này.
Sinh già bệnh chết ưu bi khổ
Thế gian bức bách không ngừng nghỉ
Ðại sư thương sót thệ tiêu trừ
Vô Tận Huệ Quang giác ngộ được.
‘’ Sinh già bệnh chết ưu bi khổ.’’ Phật vì muốn chấm dứt : sinh già bệnh chết bốn sự khổ lớn, mới xuất gia tu hành. Phật tầm đạo tu khổ hạnh sáu năm, nhưng không được phương pháp giải thoát, cuối cùng tĩnh tọa dưới cội bồ, đề hốt nhiên đại ngộ, biết được nguồn gốc vòng sinh tử, là từ vô minh khởi, tiêu diệt được vô minh thì tiêu diệt được bốn thứ khổ này.
Một số người trên thế giới này, không những không giác ngộ khổ về : sinh già bệnh chết, mà còn nhiễm khổ cho là vui, mà không biết giác ngộ. Khi sinh thì hồ đồ đến thế giới này, khi chết thì hồ đồ rời khỏi thế giới này. Khi đến thì không rõ vì sao mà đến ? Khi đi thì cũng chẳng biết vì sao mà đi ? Tóm lại, sinh từ đâu đến ? Chết đi về đâu ? Vấn đề này chẳng ai muốn biết, cũng chẳng có ai muốn giác ngộ, cho nên hồ đồ mà đến, hồ đồ mà đi.
Ðức Phật trong vô lượng kiếp tu đủ thứ hạnh môn, đều vì chấm dứt sinh tử. Cho nên đời người từ nhỏ lớn dần, trưởng thành rồi già đi, già sinh ra đủ thứ bệnh, do bệnh mà chết, đó là bốn sự khổ lớn của đời người.
‘’ Thế gian bức bách không ngừng nghỉ.’’ Ưu sầu bi ai đều là khổ, những sự khổ này, bức bách tất cả chúng sinh thế gian, chẳng có thời gian dừng nghỉ.
‘’ Ðại sư thương sót thệ tiêu trừ.’’ Ðại sư tức là Phật, Phật thương sót tất cả chúng sinh, cho nên phát nguyện diệt trừ tất cả khổ của chúng sinh.
‘’ Vô Tận Huệ Quang giác ngộ được.’’ Cảnh giới này vị Vô Tận Huệ Quang Thiên Vương giác ngộ, hiểu biết được.
Trí Phật như huyễn không gì ngại
Thấu rõ các pháp trong ba đời
Vào khắp trong tâm hạnh chúng sinh
Thiện Hóa Thiên Vương chứng môn này.
‘’ Trí Phật như huyễn không gì ngại.’’ Trí huệ của Phật như huyễn, giống như chẳng chân thật, nhưng thật ra là chân thật. Trí huệ này chẳng gì chướng ngại được, thấy rõ thật tướng của tất cả các pháp, thấy rõ nghiệp tướng, đạo tướng, phiền não tướng của tất cả chúng sinh. Tóm lại, thấu triệt được tư tưởng của tất cả chúng sinh.
‘’ Thấu rõ các pháp trong ba đời.’’ Thứ trí huệ như huyễn này, liễu đạt được các pháp quá khứ, các pháp hiện tại, các pháp vị lai. Cho nên nói pháp của Phật nói trong ba đời, đều thấy rõ thâm sâu, thông đạt vô ngại.
‘’ Vào khắp trong tâm hạnh chúng sinh.’’ Trí huệ của Phật như huyễn tam muội, thứ trí huệ hư huyễn này, biết được trong tâm tất cả chúng sinh nghĩ tưởng gì ? Làm những gì ? Và còn nhập vào được trong tâm hạnh của tất cả chúng sinh, khiến cho họ phát bồ đề tâm, sớm thành Phật đạo.
‘’ Thiện Hóa Thiên Vương chứng môn này.’’ Cảnh giới này vị Thiện Hóa Ðoan Nghiêm Thiên Vương minh bạch được.
Bờ mé tổng trì không thể được
Biện tài như biển cũng vô tận
Chuyển được bánh xe pháp thanh tịnh
Giải thoát này của Ðại Quang Thiên.
‘’ Bờ mé tổng trì không thể được.’’ Tổng trì tức là : tổng thân khẩu ý ba nghiệp thanh tịnh, trì giới định huệ ba học viên minh. Tổng là tổng tất cả các pháp, trì là hành tất cả các pháp. Tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa. Ý nghĩa tổng trì có vô lượng vô biên sự giải thích, cho nên nói bờ mé không thể được.
‘’ Biện tài như biển cũng vô tận.’’ Bốn biện tài vô ngại của Phật, giống như biển cả, chẳng cùng tận.
Bốn vô ngại tức là bốn thứ trí biện thuyết pháp của Phật Bồ Tát, nơi ý nghiệp giải là trí, nơi khẩu nghiệp giải là biện. Bốn vô ngại biện tài là :
1. Pháp vô ngại biện tài.
2. Nghĩa vô ngại biện tài.
3. Từ vô ngại biện tài.
4. Lạc thuyết vô ngại biện tài.
Tóm lại tức là biện tài vô ngại, nói ngang nói dọc, nói thô nói tế, bất cứ nói thế nào cũng đều có lý.
‘’ Chuyển được bánh xe pháp thanh tịnh.’’ Thường chuyển bánh xe pháp thanh tịnh không thể nghĩ bàn, phá trừ tâm ô nhiễm của chúng sinh, mà đắc được tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh, thân thanh tịnh thì pháp tự nhiên thanh tịnh.
‘’ Giải thoát này của Ðại Quang Thiên.’’ Cảnh giới này vị Tổng Trì Ðại Quang Minh Thiên Vương minh bạch được.
Tánh nghiệp rộng lớn không cùng tận
Trí huệ giác ngộ khéo khai thị
Tất cả phương tiện không nghĩ bàn
Huệ Thiên Vương ngộ vào môn này.
‘’ Tánh nghiệp rộng lớn không cùng tận.’’ Nghiệp của chúng sinh rộng lớn vô biên, không cùng tận. Vì nghiệp chẳng có hình tướng, nếu có hình tướng thì sớm đã đầy khắp hư không, không chỗ dung chứa.
Nghiệp là gì ? Phàm dấy khởi tâm niệm, bất cứ là thiện hoặc là ác đều là nghiệp. Khởi niệm thiện thì tạo ra nghiệp thiện. Khởi niệm ác thì tạo ra nghiệp ác. Mọi sự việc nếu chấp tướng là tạo nghiệp, không chấp tướng là giải thoát. Phàm phu chỉ hiểu được tạo nghiệp, Bồ Tát thì hiểu được giải thoát. Vì phàm phu khởi tâm vọng đi làm, cho nên là tạo nghiệp. Bồ Tát dùng một phiến tâm thanh tịnh đi làm, cho nên là giải thoát. Giải thoát là trừ sạch phiền não ba độc ở trong tâm, thì đắc được tự tại. Tạo nghiệp là thấy cảnh khởi tâm tham mà tạo thành ba nghiệp (thân, khẩu, ý) nhiễm ô và mê hoặc.
‘’ Trí huệ giác ngộ khéo khai thị.’’ Phật là người có trí huệ lớn, minh bạch tất cả đạo lý, cho nên khéo khai thị tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh minh bạch sự vui thế gian là tạm thời, sự vui xuất thế gian là vĩnh viễn.
‘’ Tất cả phương tiện không nghĩ bàn.’’ Phật dùng tất cả phương tiện để giáo hóa chúng sinh, pháp phương tiện này không thể nghĩ bàn, bất cứ loài chúng sinh nào cũng đều minh bạch tiếp thọ, y pháp phụng hành.
‘’ Huệ Thiên Vương ngộ vào môn này.’’ Môn giải thoát pháp phương tiện này, vị Bất Khả Tư Nghì Huệ Thiên Vương đắc được.
Chuyển bánh xe pháp không nghĩ bàn
Hiển bày tu tập đạo bồ đề
Vĩnh diệt tất cả khổ chúng sinh
Luân Tề Thiên Vương ngộ môn này.
‘’ Chuyển bánh xe pháp không nghĩ bàn.’’ Phật thường chuyển bánh xe pháp giáo hóa chúng sinh, chuyển động bánh xe pháp vi diệu không thể nghĩ bàn. Diệu là không thể tả, bánh xe pháp là chuyển động hằng thường, như bánh xe tiến về phía trước mà không thối lùi.
‘’ Hiển thị tu tập đạo bồ đề.’’ Phật chỉ thị chúng sinh rất rành mạch rõ ràng, tu hành như thế nào ? Dụng công như thế nào ? Ðắc được giác đạo như thế nào ? Nếu không dụng công tu hành, thì không thể đắc được giác đạo. Do đó : ‘’ Có làm thì có thu hoạch, làm nhiều thì thu hoạch nhiều ‘’ chẳng có chuyện không làm mà có thu hoạch. Người tu đạo dụng công một phần thì có một phần lợi ích, gần giác đạo một bước. Làm những việc khác thường, lãng phí công phu, mà không được kết quả. Chỉ có tu hành pháp môn này, làm một chút thì có hiệu quả một chút.
‘’ Vĩnh diệt tất cả khổ chúng sinh.’’ Phải thật tâm tu hành, thì mới đắc được đạo lý giác ngộ, mới vĩnh diệt được thống khổ của chúng sinh. Tại sao chúng sinh khổ ? Vì không giác ngộ, vì có vô minh cho nên tạo đủ thứ nghiệp, do đó thọ đủ thứ quả báo. Nếu phá trừ vô minh, thì sẽ giác ngộ, thì khổ của chúng sinh vĩnh viễn tiêu diệt.
‘’ Luân Tề Thiên Vương ngộ môn này.’’ Cảnh giới phương tiện pháp môn này vị Luân Tề Thiên Vương đắc được.
Thân thật Như Lai vốn không hai
Vật ứng theo hình khắp thế gian
Chúng sinh đều thấy ở trước họ
Cảnh giới này của Quang Diệm Thiên.
‘’ Thân thật Như Lai vốn không hai.’’ Thân thật tức là pháp thân. Thân thật của Phật không những không hai mà một cũng chẳng có. Tại sao ? Vì thân thật của Phật vô tướng vô bất tướng, vô tại vô bất tại.
‘’ Vật ứng theo hình khắp thế gian.’’ Thân thật của Phật, ứng cơ của chúng sinh, theo căn tính của chúng sinh, để vì chúng sinh mà thuyết pháp. Do đó :‘’ Quán cơ đầu giáo ‘’ (theo bệnh cho thuốc), tức cũng là vì chúng sinh thuyết pháp. Ðối với người căn tính tiểu thừa thì nói pháp tiểu thừa, người căn tính đại thừa, thì nói pháp đại thừa. Tức là theo bệnh bốc thuốc. Ðối với bệnh nhiệt thì dùng thuốc giải nhiệt để đối trị, bệnh hàn thì dùng thuốc nhiệt để đối trị, như thế thì mới hết bệnh. Cho nên thân của Phật sung mãn thế gian, đi cứu chúng sinh ra khỏi biển khổ.
‘’ Chúng sinh đều thấy ở trước họ.’’ Tất cả chúng sinh đều cảm thấy Phật đang ở trước mặt mình, đối diện thuyết pháp cho mình.
‘’ Cảnh giới này của Quang Diệm Thiên.’’ Cảnh giới môn giải thoát này, vị Quang Diệm Thiên Vương đắc được.
Nếu có chúng sinh thấy được Phật
Tất sẽ dứt sạch các nghiệp chướng
Lìa các ma nghiệp hẳn không còn
Quang Chiếu Thiên Vương được môn này.
‘’ Nếu có chúng sinh thấy được Phật.’’ Giả sử chúng sinh nào, thấy được báo thân của Phật, thì nghiệp chướng sẽ tiêu diệt. Phật có ba thân :
1. Pháp thân : Chẳng có hình tướng, là chân như thật tướng. Phật không trụ thế, cũng chẳng phải không trụ thế. Về thời gian thì dọc cùng tam tế, về không gian thì ngang khắp mười phương, đó cũng là tánh linh của Phật, hiệu là Tỳ Lô Giá Na, dịch là "biến nhất thiết xứ" (khắp cùng mọi nơi).
2. Báo thân : Là thân tướng trang nghiêm quang minh thanh tịnh, là thân thường trụ bất diệt. Phật trải qua ba đại A tăng kỳ kiếp, tu vô lượng phước đức và trí huệ mới đắc được báo thân, hiệu là Lô Xá Na, dịch là "tịnh mãn". Báo thân này thanh tịnh, như ánh sáng mặt trời, chiếu đầy khắp toàn thế gian.
3. Ứng thân : Là tùy thuận căn cơ của chúng sinh mà hiện tướng, chuyên vì giáo hóa chúng sinh, hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Thích Ca dịch là "năng nhân", biểu thị đại bi. Mâu Ni dịch là "tịch mặc", biểu thị đại trí. Lại là hóa thân, ứng theo sở cầu của chúng sinh, mà biến hóa trăm ngàn ức thân. Không những Phật có hóa thân mà Bồ Tát Quán Thế Âm cũng có vô lượng hóa thân. Bồ Tát dùng tâm để quán sát chúng sinh thế gian thọ khổ, bất cứ có bao nhiêu chúng sinh cầu cứu, thì Bồ Tát đều đồng thời cứu ra khỏi biển khổ. Vì Bồ Tát có thần thông lực hóa thân.
‘’ Tất khiến dứt sạch các nghiệp chướng.’’ Ai thấy được báo thân của Phật thì nghiệp chướng, báo chướng, phiền não chướng, tất cả chướng của người đó đều sẽ dứt sạch. Tất cả nghiệp chướng đều sẽ biến thành thanh tịnh.
‘’ Khỏi các ma nghiệp tất không còn.’’ Nghiệp chướng trừ sạch rồi, thì sẽ có ma đến nhiễu loạn dẫn dụ, khiến cho người tu hành mất đi định lực, mất đi đạo tâm. Làm thế nào vượt khỏi các ma ? Tức là siêng tinh tấn không giải đãi, bất cứ cảnh giới gì trước mắt, tâm không động, ý không loạn thì thiên ma, không có cách chi phá được, tự nhiên sẽ thối lui. Do đó, sẽ vượt khỏi tất cả ma nghiệp, vĩnh viễn không bị các ma nhiễu hại.
‘’ Quang Chiếu Thiên Vương được môn này.’’ Cảnh giới này vị Quang Chiếu Thiên Vương minh bạch được.
Tất cả chúng hội lớn như biển
Phật ở trong đó oai sáng nhất
Khắp mưa pháp vũ nhuận chúng sinh
Danh Xưng Thiên Vương vào môn này.
‘’ Tất cả hội chúng lớn như biển.’’ Phật ở trong mỗi thế giới đều có pháp hội thuyết pháp. Trong mỗi pháp hội có vô lượng chư Phật, vô lượng Bồ Tát, vô lượng A La Hán, vô lượng chúng sinh. Trong chúng hội rất rộng lớn, giống như biển cả, rộng không thể lường, sâu không thể dò.
‘’ Phật ở trong đó oai sáng nhất.’’ Phật ở trong mỗi pháp hội, có oai đức nhất, có quang sáng nhất. Do đó, đại oai đức thần thông lực, quang minh của Phật chiếu khắp mười phương.
‘’ Khắp mưa pháp vũ nhuận chúng sinh.’’ Phật thuyết pháp khắp hết thảy, giống như trời mưa, cây lớn thì hút lượng nước nhiều, cây nhỏ thì hút lượng nước ít, thảy đều được lợi ích pháp vũ, tùy theo mỗi loại, tùy theo căn tính, mà thấm nhuần tất cả chúng sinh.
‘’ Danh Xưng Thiên Vương nhập môn này.’’ Cảnh giới môn giải thoát này vị Phổ Quán Ðại Danh Xưng Thiên Vương minh bạch được.
Lại nữa, Thích Ca Nhân Ðà La Thiên Vương, được môn giải thoát, đại hoan hỷ ghi nhớ ba đời chư Phật xuất hiện ra đời, cho đến thấy rõ cõi thành hoại.
Tiếp theo Kinh văn ở trên. Vị Thích Ca Nhân Ðà La Thiên Vương, là từng trời thứ hai (trời Ðao Lợi) thuộc về dục giới. Thích Ca dịch là "năng". Nhân Ðà La dịch là "thiên chủ", nghĩa là làm chủ trên trời. Vị này đắc được một môn giải thoát là : trong khoảng một niệm có thể nghĩ biết, trong quá khứ chư Phật xuất hiện ra đời như thế nào ? Cho đến cõi Phật thành như thế nào ? Hoại như thế nào ? Vị này nhớ được cảnh giới này rất rõ ràng, và còn hiểu biết đạo lý này. Không những là đời quá khứ, mà đời hiện tại và đời vị lai cũng thấy rõ. Vì minh bạch được nhiều cảnh giới, cho nên sinh đại hoan hỷ, đại khoái lạc.
Nhân Ðà La còn gọi là Thích Ðề Hoàn Nhân. Trong vô lượng kiếp về trước, vị này là người nữ độc thân.
Một ngày nọ, vị này thấy một ngôi chùa cổ hư hoại, chẳng có ai phát tâm trùng tu lại. Vị này thấy như vậy thì trong tâm nghĩ : nếu không sửa lại thì tượng Phật bị mưa dột, gió thổi, nắng rọi, thật không đành làm ngơ. Do đó, vị này phát tâm trùng tu ngôi chùa cổ ngày, nhưng sức lực của một người có hạn, không thể hoàn thành tâm nguyện. Do đó, bèn đi tìm bạn bè và thân hữu, mọi người đều phát tâm trùng tu. Người có chí thì việc sẽ thành, tìm được ba mươi hai người phụ nữ. Ai có tiền thì cúng tiền, có sức thì dùng sức, cùng nhau nỗ lực, chẳng bao lâu thì sửa xong ngôi chùa cổ hư hoại, biến thành ngôi chùa trang nghiêm.
Nhờ công đức trùng tu sửa chùa, ba mươi ba người nữ này, sau khi chết sinh về trời Ðao Lợi mà làm Thiên chủ. Bốn hướng của cõi trời này mỗi hướng có tám vị trời, đông tây nam bắc cộng có ba mươi hai vị trời. Chính giữa có một vị trời là chỗ của Ðế Thích ở. Ba mươi ba vị trời này là ba mươi ba người phụ nữ làm thiên chủ, đó là nguồn gốc Thiên chủ.
Người không biết nhân duyên của Thiên chủ thì nói bậy bạ, nói Thiên chủ là độc hữu, là vạn năng. Thật ra chẳng phải là độc hữu, cũng chẳng phải là vạn năng. Vì vị này chỉ biết sự việc mấy vạn năm, mà không biết sự việc mấy vạn đại kiếp.
Vì không biết nhân duyên vô lượng kiếp, mới bịa ra khái niệm một vị chân thần, tạo ra một vị thần cứu kính, hoặc là thần viên mãn, hoặc thần vạn năng. Ðó là tùy ý tạo ra, muốn tạo bao nhiêu thì tạo bấy nhiêu, chẳng có ai để khống cáo. Chân thần cũng xong, thần vạn năng cũng xong, đều chẳng đúng, cho nên lấy sai lầm truyền sai lầm, truyền cho đến hiện tại. Bây giờ là thời đại khoa học, bất cứ việc gì đều phải trải qua sự khảo nghiệm. Tôn giáo cũng như thế, nếu không hợp với sự khảo nghiệm của khoa học thì sẽ bị đào thải, những người tín ngưỡng tôn giáo phải phân tích kỹ càng, đừng nên ai sao mình cũng vậy, chẳng có sự phán đoán mà dưỡng thành mê tín, như vậy thì sẽ biến thành cuồng tín.
Trời Ðao Lợi ở trên đỉnh núi Tu Di, thành tên là thành Thiện Kiến. Trong thành có lầu báu trọng các, thiên cung rất hoa lệ là chỗ ở của Thích Ðề Hoàn Nhân, tức cũng là Ngọc Hoàng Ðại Ðế của Ðạo Giáo, chỗ ở của thượng đế Gia Tô Giáo. Tuy nhiên tên chẳng giống nhau, thật ra tức là chủ của cõi trời Tam Thập Tam, cũng chỉ một người mà thôi.
Vị Thích Ðề Hoàn Nhân này còn có tên là trời Ðế Thích, là chúa cõi trời Tam Thập Tam, cõi trời này rất sung sướng, cho nên chư Thiên không thích tu thiền định, rất dễ đọa lạc trong sáu nẻo luân hồi, ngay cả Thích Ðề Hoàn Nhân cũng không ngoài lệ ấy. Chư Thiên khi gần chềt thì phát sinh năm hiện tượng suy. Vị Thích Ðề Hoàn Nhân này hưởng hết phước báo thì phải đi đầu thai, vị này biết mình sắp chết, bèn đi đến chỗ Ðức Phật cầu cứu, thỉnh giáo làm thế nào liễu sinh thoát tử ? Phật nói : ‘’Chiếu theo nhân quả mà nói thì ông phải đầu thai làm lừa, chẳng có cách chi cứu vãn.’’ Vị này nghe rồi sợ hãi vô cùng, bèn ba lần khẩn cầu Ðức Phật cứu. Phật bèn cho thọ tam quy và ngũ giới làm đệ tử Phật.
tuvienhuequang.com
Chẳng bao lâu quả nhiên chuyển nhập vào thai lừa, con lừa cái này không duyên cớ gì bèn chạy vào trong nhà chủ tiệm làm bễ đồ bằng sứ, chủ nhân nổi giận, dùng gậy đánh con lừa cái, làm cho con lừa cái xẩy thai. Do đó Trời Ðế Thích bèn trở về lại thiên cung, kiền thành tín ngưỡng Phật pháp. Phàm là chỗ nào trong thế gian có cao Tăng giảng Kinh thuyết pháp, thì vị Trời Ðế Thích này, dù bận rộn trăm việc, cũng nhất định tranh thủ thời giờ đến nghe pháp, do đó mà dẫn đến sự hiểu lầm của vợ ông ta mà phát sinh một cuộc chiến giữa chư Thiên và A Tu La.
Con gái của vua A Tu La đẹp tuyệt trần, trời Ðế Thích tham sắc đẹp mà cưới làm vợ, do đó có thể chứng minh chư thiên sáu cõi trời dục giới, không những còn tham dục mà còn có dục tính nam nữ.
Phàm là chúng sinh ở thế gian tu mười điều lành giữ năm giới cấm, thì sẽ được tái sanh về cõi trời này. Nhưng ở đây chẳng phải là nơi cứu kính. Do đó :
‘’ Sáu cõi trời dục giới có năm tướng suy,
Trời Tam Thiền có nạn gió lớn,
Dù sinh về cõi trời Phi Phi Tưởng,
Chẳng bằng về cõi Tây Phương Cực Lạc.’’
Thế giới Cực Lạc mới là nơi cứu kính, cõi đó hoa sen hóa sinh, sung sướng vô ngần chẳng có phiền não.
Phổ Xưng Mãn Âm Thiên Vương, được môn giải thoát, khiến cho sắc thân của Phật, thanh tịnh rộng lớn nhất, thế gian không gì so sánh được.
Vị Phổ Xưng Mãn Âm Thiên Vương được môn giải thoát biết sắc thân của Phật thanh tịnh nhất, rộng lớn nhất, bất cứ Thánh nhân thế gian không thể so sánh được.
Ở trước có nói về thân thật của Phật tức là pháp thân. Bây giờ nói về sắc thân của Phật tức là báo thân. Hóa thân của Phật tức là ứng thân. Cho nên Phật có pháp thân, báo thân, hóa thân ba thân. Sắc thân của Phật là thanh tịnh nhất, chẳng có nhiễm ô, chẳng giống như thân phàm phu của chúng ta, không sạch sẽ mà dơ bẩn. Sắc thân của Phật đầy đủ ba mươi hai tướng và tám mươi vẻ đẹp. Mỗi một tướng, mỗi một vẻ đều thanh tịnh rộng lớn. Báo thân của Phật cũng hiện trong vô lượng thế giới giáo hóa chúng sinh. Bộ Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật này do Phật nói, Phật hiện thân Lô Xá Na ngàn trượng mà nói diệu pháp. Chuyển Luân Thánh Vương là người có phước đức tướng của thế gian, tuy nhiên cũng có ba mươi hai tướng tốt, nhưng không thể so sánh với Phật. Vị Thiên Vương này đắc được môn giải thoát này.
Từ Mục Bảo Kế Thiên Vương được môn giải thoát, mây từ bi che khắp.
Vị Từ Mục Bảo Kế Thiên Vương, vì mắt của vị này phóng ra mây quang minh từ bi, chiếu soi chúng sinh khiến cho họ sinh tín tâm. Bảo kế của vị này thường tuôn ra các châu báu mà bố thí cho chúng sinh, cho nên được tên này.
Vị này đắc được môn giải thoát, mây từ bi của Phật che chở bảo hộ tất cả chúng sinh. Mây từ bi của Phật khiến tất cả chúng sinh, đều có tâm từ bi mà không giết hại, có tâm bố thí mà không trộm cắp, có tâm nhẫn nhục mà không nóng giận, có tâm tinh tấn mà chẳng lười biếng, có tâm thiền định mà không tán loạn, có tâm trí huệ mà không ngu si. Mây từ này còn khiến cho tất cả chúng sinh từ bờ sinh tử bên này qua được giòng phiền não, đạt đến bờ Niết Bàn bên kia.
Bảo Quang Tràng Danh Xưng Thiên Vương, được môn giải thoát, luôn luôn thấy Phật, hiện đủ thứ thân hình, tướng oai đức ở trước mặt vua.
Vị Bảo Quang Tràng Danh Xưng Thiên Vương thường thấy Phật, ở trước mặt vua thế gian, hiện ra đủ thứ hình tướng, thân có đại oai đức tướng, có uy đáng sợ, có đức đáng kính, khiến cho người thấy tự nhiên cung kính đảnh lễ chiêm ngưỡng. Ví như Vua Tần Bà Sa La quy y Phật làm đệ tử, con là vua A Xà Thế cũng quy y Phật. Vua Ba Tư Nặc quy y Phật làm đệ tử, con là Kỳ Ðà cũng quy y Phật. Lúc đó có rất nhiều vị vua quy y Phật. Vị Thiên Vương này đắc được cảnh giới môn giải thoát này.
Phát Sinh Hoan Hỷ Kế Thiên Vương được môn giải thoát, biết thành ấp cung điện của tất cả chúng sinh, do phước nghiệp gì mà có.
Vị Phát Sinh Hoan Hỷ Kế Thiên Vương biết được thành ấp cung điện chỗ ở của tất cả chúng sinh do phước nghiệp gì mà sinh ra. Vì chúng sinh tu pháp môn giới định huệ, diệt trừ phiền não tham sân si. Cho nên có quả báo phước nghiệp thành ấp cung điện, nếu chỉ tạo tội nghiệp mà không tu công đức lành thì chẳng có phước báo như thế. Phước nghiệp là do làm việc thiện mà có, đó là môn giải thoát của vị này đác được.
Ðoan Chánh Niệm Thiên Vương, được môn giải thoát, chư Phật khai thị thành thục chúng sinh.
Vị Ðoan Chánh Niệm Thiên Vương được môn giải thoát, mười phương chư Phật khai thị thành thục chúng sinh. Người chưa gieo trồng căn lành thì trồng căn lành, đã trồng căn lành thì khiến cho tăng trưởng, đã tăng trưởng thì khiến cho thành thục, đã thành thục thì khiến cho được giải thoát, đó là việc chư Phật thành thục chúng sinh.
Cao Thắng Âm Thiên Vương được môn giải thoát, biết tướng chuyển biến kiếp thành hoại của tất cả thế gian.
Vị Cao Thắng Âm Thiên Vương minh bạch được tất cả thế gian làm thế nào hình thành ? Làm thế nào trụ ? Thế nào hoại ? Thế nào không ? Thành, trụ, hoại, không cần bao nhiêu kiếp ? Và làm thế nào từ kiếp thành chuyển đến kiếp trụ ? Từ kiếp trụ chuyển đến kiếp hoại ? Từ kiếp hoại chuyển đến kiếp không ? Từ kiếp không lại chuyển đến kiếp thành ? Những tướng như vậy làm thế nào chuyển biến ? Chuyển biến thì phải trải qua thời gian dài bao lâu ? Vị này đều biết, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Chúng sinh cang cường khó điều khó phục. Hiển giáo là :‘’ văn độ chúng sinh.’’ Bồ Tát dùng bốn tâm vô lượng để giáo hóa, khiến cho chúng sinh có duyên đều chứng Phật đạo. Mật giáo là :‘’ Võ độ chúng sinh.’’ Kim cang là tướng phẫn nộ, dùng thủ đoạn cưỡng bách để giáo hóa, khiến cho chúng sinh vô duyên đều được giải thoát. Phương pháp tuy nhiên chẳng giống, nhưng mục đích giống nhau, đều khiến cho chúng sinh minh tâm kiến tánh thành Phật.
Tịnh Hoa Quang Thiên Vương, được môn giải thoát, biết rõ nguyên nhân vì sao tất cả chư Thiên khoái lạc.
Vị Tịnh Hoa Quang Thiên Vương hiểu biết tất cả chư thiên rất khoái lạc, chẳng ưu sầu. Tại sao họ được quả báo khoái lạc ? Vì quá khứ họ đã trồng xuống nhân khoái lạc, tức là tu giữ năm giới, làm mười điều lành, họ đều tu công đức bậc thượng. Nếu tu công đức bậc trung thì sinh về cõi người. Nếu tu công đức bậc hạ thì sinh về cõi A Tu La. Ðó là môn giải thoát của vị này đắc được.
Trí Nhật Nhãn Thiên Vương, được môn giải thoát, khai thị tất cả các Thiên tử thọ sinh căn lành, khiến cho họ không còn si hoặc.
Vị Trí Nhật Nhãn Thiên Vương được môn giải thoát, khai thị tất cả các Thiên tử thọ sinh căn lành, khiến cho họ đều trừ khử ngu si nghi hoặc.
Tự Tại Quang Minh Thiên Vương, được môn giải thoát, khai ngộ tất cả các Thiên chúng, khiến cho họ vĩnh viễn dứt sạch tâm nghi hoặc.
Vị Tự Tại Quang Minh Thiên Vương được môn giải thoát, khai ngộ tất cả các Thiên chúng, khiến cho họ ngộ nhập vào cảnh giới của Phật, khiến cho tất cả các Thiên chúng, vĩnh viễn đoạn trừ tâm nghi hoặc, mà sinh tâm chánh tín.
Bấy giờ, Thích Ca Nhân Ðà La Thiên Vương, nương oai lực của đức Phật, quán khắp tất cả Thiên chúng, trời Tam Thập Tam mà nói kệ rằng.
Ðương lúc đó, vị Thiên chủ nương đại oai thần lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả Thiên chúng trời Tam Thập Tam (trời Ðao Lợi) mà nói kệ để tán thán chư Phật.
Tôi nhớ chư Phật trong ba đời
Tất cả cảnh giới đều bình đẳng
Như các cõi nước hoại và thành
Dùng Phật oai thần đều thấy được.
‘’ Tôi nhớ chư Phật trong ba đời.’’ Thích Ca Nhân Ðà La Thiên Vương nói : tôi suy nghĩ chư Phật quá khứ, chư Phật hiện tại, chư Phật vị lai, mười phương ba đời tất cả chư Phật, đều bình đẳng chẳng khác gì.
‘’ Tất cả cảnh giới đều bình đẳng.’’ Cảnh giới của chư Phật trong ba đời, đều một luật bình đẳng, chẳng có cao thấp, chẳng có khác về lớn nhỏ, mà đều bình đẳng giống nhau.
‘’ Như các cõi nước hoại và thành.’’ Cõi nước chư Phật làm thế nào hoại ? Làm thế nào thành ? Cảnh giới này thật là không thể nghĩ bàn.
‘’ Dùng Phật oai thần đều thấy được.’’ Dùng đại oai thần lực của chư Phật, khiến cho tất cả chúng sinh, đều thấy được Phật, đều minh bạch được cảnh giới này.
Thân Phật rộng lớn khắp mười phương
Sắc đẹp chẳng sánh lợi quần sinh
Quang minh chiếu sáng khắp hết thảy
Phổ Xưng Thiên Vương thấy môn này.
‘’ Thân Phật rộng lớn khắp mười phương.’’ Pháp thân của Phật rộng lớn vô biên, khắp trong tất cả mười phương, tận hư không khắp pháp giới, chỉ cần có không gian tồn tại, thì có pháp thân tồn tại.
‘’ Sắc đẹp chẳng sánh lợi quần sinh.’’ Sắc đẹp của Phật không thể sánh, lợi ích tất cả chúng sinh hữu tình và vô tình.
‘’ Quang minh chiếu sáng khắp hết thảy.’’ Quang minh thanh tịnh của Phật, chiếu sáng tất cả chúng sinh, chẳng có một chúng sinh nào, không tắm mình trong ánh từ quang. Quang minh này rất bình đẳng, không phân biệt thiện căn hoặc độn căn, đều chiếu sáng và gia bị hết thảy.
‘’ Phổ Xưng Thiên Vương thấy môn này.’’ Cảnh giới này vị Phổ Xưng Mãn Âm Thiên Vương quán sát thấy được.
Như Lai phương tiện biển đại từ
Kiếp xưa tu hành rất thanh tịnh
Hóa đạo chúng sinh không bờ mé
Bảo Kế Thiên Vương ngộ môn này.
‘’ Như Lai phương tiện biển đại từ.’’ Như Lai là một trong mười danh hiệu của Phật. Mỗi vị Phật đều có mười danh hiệu, tức là :
1. Như Lai : Pháp thân của Phật từ đạo như thật mà đến.
2. Ứng cúng : Ðức Phật đoạn trừ ba hoặc và nhị tử, vạn đức phước huệ đầy đủ, xứng đáng thọ lãnh chúng sinh trong chín pháp giới cúng dường.
3. Chánh biến tri : Trí huệ của Phật chiếu tất cả các pháp, vừa chánh lại vừa khắp cùng.
4. Minh hạnh túc : Phước và huệ của Phật đều đầy đủ. Ba minh là huệ, năm hạnh là phước.
5. Thiện thệ thế gian giải : Phật tu chánh đạo nhập Niết Bàn, còn hiểu rõ tất cả hình trạng thế gian.
6. Vô thượng sĩ : Chánh giác của Phật là vô thượng, chín giới chúng sinh không thể so sánh được.
7. Ðiều ngự trượng phu : Phật là bậc đại trượng phu, điều thuận tu chánh đạo.
8. Thiên nhân sư : Phật là đại đạo sư của trời người, giáo hóa hết thảy bỏ tà về chánh, cải ác hướng thiện.
9. Phật : Là Thánh nhân đại giác ngộ.
10. Thế Tôn : Phật là người tôn quý nhất trong thế gian.
Ðầy đủ mười hiệu mới xưng là Phật. Vì lòng đại từ bi, cho nên Phật xử dụng pháp phương tiện, để tiếp dẫn chúng sinh. Từ bi như biển lớn, cho nên gọi phương tiện biển đại từ.
‘’ Kiếp xưa tu hành rất thanh tịnh.’’ Vì trong kiếp quá khứ, Phật tu đủ thứ hạnh môn, cho nên thành tựu pháp thân rất thanh tịnh. Thanh tịnh là chứng minh sự tu hành, nếu không nhận chân tu hành, thì không thể đắc được thanh tịnh.
‘’ Hóa đạo chúng sinh không bờ mé.’’ Vì thanh tịnh là do tu hành chân thật mà được, cho nên dùng đủ thứ phương tiện pháp môn đại từ, để giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh, dứt phiền não phá vô minh, thành tựu pháp thân, phương tiện pháp môn đại từ này chẳng có bờ mé.
‘’ Bảo Kế Thiên Vương ngộ môn này.’’ Cảnh giới môn giải thoát này, vị Từ Mục Bảo Kế Thiên Vương giác ngộ được.
Tôi nhớ biển công đức của Phật
Hơn hết trong đời chẳng ai bằng
Phát sinh tâm hoan hỷ rộng lớn
Giải thoát này của Bảo Quang Thiên.
‘’ Tôi nhớ biển công đức của Phật.’’ Bảo Quang Tràng Danh Xưng Thiên Vương nói : ‘’ Tôi nhớ lại công đức của Phật, vô lượng vô biên như biển cả.’’ Cho nên nói biển công đức của Phật.
‘’ Hơn hết trong đời chẳng ai bằng.’’ Công đức này cao thượng nhất trong thế gian, chẳng có ai so sánh với công đức của Phật.
‘’ Phát sinh tâm hoan hỷ rộng lớn.’’ Tôi nhớ tới cảnh giới này, trong tâm bèn phát sinh tâm hoan hỷ rộng lớn.
‘’ Giải thoát này của Bảo Quang Thiên.’’ Bảo Quang Tràng Danh Xưng Thiên Vương đắc được môn giải thoát này.
Phật biết nghiệp lành của chúng sinh
Ðủ thứ thắng nhân sinh phước lớn
Ðều khiến hiển hiện chẳng còn xót
Hỷ Kế Thiên Vương thấy môn này.
‘’ Phật biết nghiệp lành của chúng sinh.’’ Phật biết được tất cả nghiệp lành của chúng sinh, không những biết một đời mà còn biết được nghiệp lành vô lượng đời.
‘’ Ðủ thứ thắng nhân sinh phước lớn.’’ Tu đủ thứ nhân thù thắng, mới hoạch được phước báo rộng lớn. Do đó :
‘’ Ðời trước không tu, đời này khổ,
Ðời này không tu, đời sau càng khổ.’’
Người có phước báo, do đời trước đã trồng xuống nhân công đức, cho nên đời này có tiền tài, có quyền thế giàu sang. Nếu càng bố thí làm lành, thì đời sau nhất định tốt hơn so với đời này. Nếu đời này keo kiệt không bố thí, thì đời sau nhất định không được như đời này, thậm chí hưởng hết phước, thì không chắc được tái sinh làm người, hoặc có thể tái sinh làm súc sinh để trả nợ nghiệp.
‘’ Ðều khiến hiển hiện chẳng còn xót.’’ Vị này đều khiến cho đủ thứ nhân lành đều hiển hiện, mà tơ hào chẳng bỏ xót. Trồng nhân lành nhỏ thì được phước báo nhỏ, trồng nhân lành lớn thì được phước báo lớn, tơ hào không sai.
‘’ Hỷ Kế Thiên Vương thấy môn này.’’ Cảnh giới này vị Hỷ Lạc Kế Thiên Vương thấy được.
Chư Phật xuất hiện trong mười phương
Khắp cùng trong tất cả thế gian
Quán tâm chúng sinh hiện điều phục
Chánh Niệm Thiên Vương ngộ môn này.
‘’ Chư Phật xuất hiện trong mười phương.’’ Mười phương ba đời tất cả chư Phật, xuất hiện trong mười phương ba đời tất cả thế gian.
‘’ Khắp cùng trong tất cả thế gian.’’ Khắp cùng trong thế gian, tức cũng khắp cùng trong hư không pháp giới.
‘’ Quán tâm chúng sinh hiện điều phục.’’ Mười phương ba đời tất cả chư Phật, quán sát tất cả tâm chúng sinh, hiển thị ra pháp môn điều phục. Chúng sinh nhiều tham, thì khiến cho họ tu quán bất tịnh, chúng sinh nhiều sân, thì khiến cho họ tu quán từ bi. Chúng sinh ngu si, thì khiến cho họ tu quán nhân duyên. Cho nên phải quán sát căn tính chúng sinh, mà dùng pháp phương tiện, để giáo hóa, để điều phục.
Phật điều phục tất cả chúng sinh chẳng chấp trước nơi tướng. Trong Kinh Kim Cang có nói :
‘’ Phật diệt độ tất cả chúng sinh,
Thật chẳng có chúng sinh được diệt độ.’’
Ðó là không thủ nơi tướng, độ chúng sinh mà chẳng có tướng chúng sinh, tức là chẳng chấp trước chúng sinh.
Chúng ta làm việc gì, thì chấp trước vào việc đó, bố thí cho người một ly nước, hoặc cho người một bát cơm, thì cho rằng mình làm việc tốt, lợi ích cho chúng sinh, đó là chấp trước tướng. Cho nên phải có tư tưởng tam luân thể không :
1. Không thấy có người bố thí, như vậy thì có thể trừ ngã chấp, tức là không có ngã (cái ta).
2. Không thấy có vật thí, như vậy thì có thể trừ san tham, tức là pháp không.
3. Không thấy có người nhận, không phân biệt người thân, kẻ oán, đều bình đẳng bố thí, tức là người không.
Ðược ba điều này đều không, thì mới là bố thí chân thật. Bằng không, nếu vì danh vì lợi, thì biến thành bố thí có xí đồ, là bố thí giả, chẳng phải thật bố thí.
‘’ Chánh Niệm Thiên Vương ngộ môn này.’’ Vị Ðoan Chánh Niệm Thiên Vương minh bạch được đạo lý môn giải thoát này.
Trí thân Như Lai mắt rộng lớn
Hạt bụi thế giới thảy đều thấy
Như vậy cùng khắp trong mười phương
Vân Âm Thiên Vương chứng môn này.
‘’ Trí thân Như Lai mắt rộng lớn.’’ Trí huệ thân của Phật phóng đại quang minh, chiếu khắp mười phương thế giới. Quang minh này rộng lớn không bờ mé, chẳng có chỗ nào không chiếu đến, chẳng có chỗ nào mà không có.
‘’ Hạt bụi thế giới thảy đều thấy.’’ Tất cả hạt bụi ở trong mười phương thế giới, và tất cả chúng sinh vạn sự vạn vật, Phật đều biết đều thấy, cho nên nói hết thảy đều thấy.
‘’ Như vậy cùng khắp trong mười phương.’’ Trí thân của Phật có mắt rộng lớn, cho nên chiếu sáng khắp mười phương. Hạt bụi trong tất cả thế giới không đâu mà chẳng thấy, đó là cảnh giới của Phật.
‘’ Vân Âm Thiên Vương chứng môn này.’’ Cảnh giới môn giải thoát này, vị Cao Thắng Vân Âm Thiên Vương minh bạch được.
Tất cả Phật tử hạnh bồ đề
Ðều hiện trong lỗ lông Như Lai
Như thế vô lượng đều đầy đủ
Giải thoát này của Niệm Thiên Vương.
‘’ Tất cả Phật tử hạnh bồ đề.’’ Tất cả Bồ Tát hậu bổ làm Phật vị, ở nội viện cung trời Ðâu Suất, hạnh môn của các Ngài tu là giác đạo. Ðợi nhân duyên thành thục thì nương voi trắng sáu ngà (đại biểu cho lục độ Ba la mật) hàng sinh xuống nhân gian làm giáo chủ.
‘’ Ðều hiện trong lỗ lông Như Lai.’’ Các Ngài từ ban đầu phát tâm bồ đề, hành Bồ Tát đạo, tất cả hạnh môn cho đến bổ Phật vị, đều hiện ra ở trong lỗ chân lông của Phật.
‘’ Như thế vô lượng đều đầy đủ.’’ Giống như những hạnh môn, nhiều vô lượng vô biên như thế, đều đầy đủ cảnh giới này.
‘’ Giải thoát này của Niệm Thiên Vương.’’ Cảnh giới này vị Thành Tựu Niệm Thiên Vương minh bạch, thấy được.
Tất cả an lạc của thế gian
Hết thảy đều từ Phật sinh ra
Công đức Như Lai chẳng ai bằng
Tịnh Quang Thiên Vương vào môn này.
‘’ Tất cả an lạc của thế gian.’’ Tất cả sự an lạc và bình an ở nhân gian và trên cõi trời đều nhờ Phật gia bị, ban bố cho.
‘’ Hết thảy đều từ Phật sinh ra.’’ Vì Phật pháp có công năng vun bồi tưới bón, khiến cho chúng sinh chẳng có căn lành, thì trồng căn lành, đã trồng căn lành thì khiến cho tăng trưởng. Người căn lành tăng trưởng, thì khiến cho thành thục, người căn lành thành thục, thì khiến cho giải thoát, sau đó khiến cho tất cả chúng sinh, đều thành tựu Phật đạo, cho nên nói tất cả đều từ Phật sinh ra.
‘’ Công đức Như Lai chẳng ai bằng.’’ Công đức của Phật thù thắng nhất, chẳng ai có thể sánh được. Vì Phật trong ba đại A tăng kỳ kiếp tu phước tu huệ, trong trăm đại kiếp tu đủ thứ công đức tướng tốt, cho nên Phật là phước huệ lưỡng túc tôn, có ba mươi hai tướng trang nghiêm, tám mươi vẻ đẹp, thành bậc chánh giác, ba giác viên mãn.
Ðầu của Phật có hào quang, trên đỉnh có nhục kế, tóc quắn xanh biếc, mặt như trăng rằm, hào quang trắng phóng quang minh, lông mi cong như trăng non, mắt sáng như gương, mũi chẳng hiện lỗ, môi đỏ như đan (chất màu đỏ tươi), răng trắng như tuyết, bốn mươi cái răng, lưỡi dài quá mũi, tai thon gần đụng vai, toàn thân màu hoàng kim, da trơn mịn, thể thơm như bông lan, ngực có chữ vạn, rún sâu tròn tốt, tay dài quá gối, tay chân có màng mỏng, ngón tay nhỏ dài, móng tay như ngói, mu bàn chân cao dày, đi như thiên nga, tướng mã âm tàng, đầu gối tròn cứng, âm thanh sâu xa .v.v. Ba mươi hai tướng này đều hiếm có trong đời, chúng ta may đâu chỉ có một trong ba mươi hai tướng, tức là quý tướng. Tại sao chúng ta chẳng có những tướng này ? Vì kiếp trước chẳng tu phước chẳng tu huệ, cho nên chẳng có tướng tốt như thế. Nếu muốn tướng mạo đoan chánh trang nghiêm thì phải mau trì giới bố thí, tu phước tu huệ, mới có được tướng tốt.
‘’ Tịnh Quang Thiên Vương vào môn này.’’ Môn giải thoát này vị Tịnh Hoa Quang Thiên Vương minh bạch được.
Ðức Phật là cha đại từ bi của chúng ta, cho nên sớm dự bị sự khoái lạc ở cõi trời và cõi người. Chúng ta giống như lúc còn thơ ấu, cha mẹ mua đến rất nhiều đồ chơi, trẻ con thấy đồ chơi nhảy nhót vui mừng, bèn sinh tâm khoái lạc. Sự khoái lạc này do cha mẹ ban cho. Chư thiên, loài người đều là con, cháu của Phật, cho nên Phật mới cho chúng sinh an lạc. Suy nghĩ như thế mới sinh tín tâm đối với Phật.
Nếu nghĩ chút công đức Như Lai
Cho đến kính ngưỡng một tâm niệm
Các đường ác sợ đều vĩnh trừ
Trí Nhãn Thiên Vương ngộ môn này.
‘’ Nếu nghĩ chút công đức Như lai.’’ Nếu như bạn nghĩ nhớ công đức của Phật dù nhỏ nhất, thậm chí chút công đức nhỏ như hạt bụi, thì sẽ được chỗ diệu dụng không thể nghĩ bàn.
‘’ Cho đến kính ngưỡng một tâm niệm.’’ Hoặc là trong khoảng một niệm, sinh tâm chuyên nhất kính ngưỡng đối với Phật, tức là chẳng có tâm tạp loạn để kính ngưỡng Phật. Tuy nhiên là công đức nhỏ nhất nhưng có công năng lớn vô cùng.
‘’ Các đường ác sợ đều vĩnh trừ.’’ Chỉ trong một niệm, sinh tâm cung kính ngưỡng mộ, thì vĩnh viễn thoát khỏi tâm sợ sệt trong ba đường ác : địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.
‘’ Trí Nhãn Thiên Vương ngộ môn này.’’ Vị Trí Nhựt Nhãn Thiên Vương, giác ngộ thâm sâu và minh bạch cảnh giới môn giải thoát này.
tuvienhuequang.com/phap-thoai-giang-luc/...m-giang-giai-15.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét