Chủ Nhật, 9 tháng 8, 2009

Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật 3 ===

Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối. Trong quá khứ, các vị Bồ Tát nầy, với Tỳ Lô Giá Na Như Lai, cùng tu tập căn lành, tu hành hạnh Bồ Tát. Ðều từ biển căn lành của Như Lai sinh ra. [b]Tỳ Lô Giá Na dịch là "biến nhất thiết xứ"(khắp tất cả mọi nơi). Là pháp thân của Phật Thích Ca Mâu Ni (tướng tâm chân thật sở hiện, chân thường bất biến).[/b] Bồ Tát số đông như hạt bụi trong mười phương thế giới, trong vô lượng kiếp về trước, đều cùng với Phật Tỳ Lô Giá Na tu tập căn lành, trong cùng một pháp hội, mỗi người tu lục độ vạn hạnh của mỗi người.[b] Siêng tu công đức lành, dứt hẳn mọi điều tội ác, đó gọi là đồng tu căn lành.[/b] Hạnh Bồ Tát tức là lợi ích chúng sinh, tức cũng là lợi người lợi mình, giác mình giác người, độ mình độ người. Những căn lành nầy đều từ trong Tỳ Lô Giá Na Phật, giống như từ biển cả sinh ra. Vì căn lành của những Bồ Tát nầy giống như sông ngòi, còn căn lành của Phật giống như biển cả. [b]Tuy nhiên mỗi vị Bồ Tát tự tu tập căn lành, nhưng đều phải chảy vào trong biển của Như Lai, đó gọi là từ trong biển căn lành của Như Lai sinh ra[/b]. Các hạnh Ba la mật đều đã viên mãn. Những vị Bồ Tát nầy đều [b]tu đầy đủ các pháp môn Ba La Mật, đã hoàn toàn đạt đến cảnh giới viên mãn không thiếu khuyết.[/b] Ba La Mật dịch là "đến bờ kia". Bờ kia tức là không sinh không diệt, cảnh giới Niết Bàn. Pháp môn Ba La Mật tức là lục độ. 1. Bố thí Ba La Mật : Tức là thí xả. Môn nầy gồm có ba loại, muốn nói tỉ mỉ thì có tám vạn bốn ngàn loại, mỗi một thứ loại có tám vạn bốn ngàn pháp môn, phân tích ra thì nhiều vô cùng, bây giờ chỉ nói ba loại. a. Bố thí tài : Bố thí tài không dễ gì làm được. Tục ngữ có câu [b]"xả tài như lóc thịt", hơn nữa làm sao bỏ được thành quách vợ con, đầu mắt tủy não. Có đủ tinh thần như vầy, mới chân thật hành Bồ Tát đạo.[/b] b. Bố thí pháp : Ðem Phật pháp bố thí cho tất cả chúng sinh, kết pháp duyên với chúng sinh. [b]Do đó :"Thí tài như lóc thịt, thí pháp như mất mạng". [/b]Bố thí pháp thì cứu được huệ mạng của người, nhưng bố thí ra thì mình[b] hao khí lực, khí lực tức là mạng sống. Giảng Kinh phải dùng khí lực, thuyết pháp phải dùng khí lực, đem ý nghĩa mỗi câu mỗi chữ tống vào trong đầu não của người nghe pháp, giống như đem mạng sống bố thí không khác.[/b] c. Bố thí không sợ hãi :[b] Tức là khi chúng sinh gặp tai nạn rủi ro, hồn phi phách tán thì phải an ủi họ, khuyên họ "đừng sợ,[/b] chư Phật Bồ Tát sẽ bảo hộ bạn, bạn niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì nhất định sẽ được cứu", đó là trị bằng tâm lý. [b]Thực ra chẳng phải chư Phật Bồ Tát, từ vô lượng vô biên cõi nước, bay đến đây để gia hộ cho bạn, mà là bạn không sợ sệt, Phật tánh của bạn bình an, đó là thừa mông chư Phật Bồ Tát bảo hộ.[/b] Hoặc là có người sợ sệt thì bạn làm bằng mọi cách cho họ hết sợ, đó là vô úy thí. 2. Trì giới Ba La Mật : Giới là quy luật, cũng là con đường tu hành,[b] cho nên tu hành phải nghiêm trì giới luật. Người trì giới luật thì sẽ có lợi ích, mỗi người giữ năm giới, thì gia đình hạnh phúc, xã hội yên ổn, thế giới hoà bình. Giới có năm giới lớn căn bản, tức là : Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, (kể cả không hút thuốc, không hút xì ke ma túy), lại có tám giới (Bát Quan Trai), giới Bồ Tát có mười giới trọng bốn mươi tám giới khinh, Sa Di có mười giới, Tỳ Kheo có hai trăm năm mươi giới, Tỳ Kheo Ni có ba trăm bốn mươi tám giới.[/b] 3. Nhẫn nhục Ba La Mật : Tức là [b]nhẫn chịu sự khi nhục, nhẫn những gì người không thể nhẫn.[/b] Nhẫn có ba thứ. A. Sinh nhẫn : Tức là phải nhẫn chịu đối với tất cả chúng sinh. [b]Có người mắng bạn, phỉ báng bạn, thậm chí đánh bạn, đều phải nhẫn chịu. Tu hành tức là tu nhẫn nhục, nhẫn được thì không nóng giận.[/b] Không nóng giận thì không có vô minh. Không có cô minh thì trí tuệ hiện tiền. B. Pháp nhẫn : Tức là phải nhẫn chịu đối với tất cả các pháp. [b]Phải nhẫn nóng lạnh, đói khát, tiếp thọ mọi sự khảo nghiệm.[/b] C. Vô sinh pháp nhẫn : Sinh nhẫn được thì người không, pháp nhẫn được thì pháp không. Hơn nữa, nhẫn được thì chẳng có chút pháp sinh, cũng chẳng có chút pháp diệt, tức là trung đạo. Người không, pháp không thì đắc được trung đạo liễu nghĩa, tức là vô sinh pháp nhẫn. 4. Tinh tấn Ba La Mật : Tức là không lười biếng, không giải đãi, không phóng dật. Tinh tấn có hai : a. Thân tinh tấn : [b]Tức là ngày đêm sáu thời tinh tấn hành đạo. b. Tâm tinh tấn : Niệm niệm cầu vô thượng đạo, niệm niệm tu vô thượng đạo, niệm niệm ngộ vô thượng đạo, niệm niệm chứng vô thượng đạo.[/b] 5. Thiền định Ba La Mật : Ở trong thiền định đắc được công phu, thì tùy thời tùy lúc, ở trong định đắc được thiền định tam muội, mới có thể đến được bờ kia. 6. Bát nhã Ba La Mật : Bát Nhã dịch là trí hụê. Bát Nhã có ba thứ : a. Văn tự Bát Nhã : Tức là văn tự Tam Tạng mười hai bộ, văn tự giống như thuyền qua sông, qua sông rồi, đừng chấp thuyền. b. Quán chiếu Bát Nhã : Tức là tự tu huệ. Có trí huệ quán sát giác chiếu rồi, thì sẽ đoạn trừ được kiến tư hoặc, trần sa hoặc và vô minh hoặc. c. Thật tướng Bát Nhã : Thật tướng là tướng chân thật, tức cũng là vô tướng, tướng không hư vọng. Thường quán như thế, thì sẽ không bị vô minh che đậy, mà hiển lộ ra đại quang minh tạng. Mắt huệ thấu triệt, thấy hết thảy ba đời. Nói các môn Tam muội đều đầy đủ thanh tịnh. Biện tài như biển, rộng lớn vô tận. Người có con mắt trí huệ (huệ nhãn), thì thấu triệt được thật tướng của các pháp. [b]Vì người đầy đủ năm nhãn, thì quán sát thời gian ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai đều là giả danh mà thôi,[/b] cho nên quán sát ba đời đều bình đẳng, tức cũng biết rõ hôm qua và hôm nay là giống nhau, hôm nay và ngày mai cũng chẳng có gì khác biệt[b]. Quán sát bình đẳng có ích lợi gì ? Là dạy bạn đừng có tâm phân biệt, không có tâm phân biệt thì quán sát được ba đời đều bình đẳng. [/b] Bất cứ [b]tu môn tam muội gì, đều phải đầy đủ viên mãn thanh tịnh[/b]. Tu thiền định thì đắc được thiền định tam muội, tu nhẫn nhục thì đắc được nhẫn nhục tam muội, tu niệm Phật thì đắc được niệm Phật tam muội, tu quán tưởng thì đắc được quán tưởng tam muội. Tóm lại, tu pháp môn gì thì đắc được tam muội pháp môn đó. Biện tài tức là khéo biện luận. Những vị đại Bồ Tát nầy, biện luận với bất cứ người biện luận nào, cũng đều là người thắng lợi, biện tài giống như biển cả, rộng lớn không có ngằn mé, cho nên nói vô tận biện tài. Có bốn vô ngại biện. a. Pháp vô ngại biện : Nói rõ được các pháp, ở trong giáo pháp [b]không có gì mà chẳng hiểu biết, nhưng không chấp trước.[/b] b. Nghĩa vô ngại biện : Biết được nghĩa lý sai biệt của giáo pháp, mà thông đạt vô ngại. c. Từ vô ngại biện : Từ vô ngại biện : Nói được ngôn ngữ của các nước, thông đạt tự tại. Ở trong một lời gồm có nhiều thứ nghĩa lý. d. Lạc thuyết vô ngại biện : Có pháp, nghĩa ,từ ba trí huệ vô ngại biện, vì chúng sinh ưa thích, mà khéo léo thuyết pháp. Ðầy đủ công đức của Phật, tôn nghiêm đáng kính. Biết rõ căn tánh của chúng sinh, theo đó mà giáo hóa điều phục. Nhập vào pháp giới tạng, trí vô sai biệt. Chứng được giải thoát của Phật, sâu rộng quảng đại. Những vị đại Bồ Tát nầy, đều đầy đủ công đức của Phật, cho nên tất cả chúng sinh đều cung kính các Ngài. Không những phải cung kính mười phương chư Phật và Bồ Tát, mà các bậc A La Hán đại Thánh nhân, cũng phải cung kính. Chúng sinh cung kính các Ngài, các Ngài cũng biết căn tánh của họ lợi hay là độn. Nếu [b]lợi căn thì nói pháp thật tướng, nếu độn căn thì nói pháp phương tiện hoặc pháp ví dụ,[/b] khiến cho họ thấu rõ khai ngộ. Vì những vị Bồ Tát nầy biết căn tánh của họ, cho nên biết được nên dùng pháp gì để hóa độ họ, điều phục họ, khiến cho họ có tâm kính sợ. Trí huệ của các vị Bồ Tát nầy, với pháp giới hợp mà làm một, đắc được trí vô sai biệt, mới chứng được giải thoát.[b] Sự giải thoát nầy lìa tất cả chấp trước, chẳng có chấp người, cũng chẳng có chấp pháp, do đó "người không, pháp không".[/b] Xưa kia có vị Sa Di nhỏ tuổi, giảng pháp giảng đến chỗ : chẳng còn pháp để giảng thì lén trốn bỏ đi. Người cầu pháp đợi rất lâu, mà chẳng nghe nói gì nữa, bèn ngẩng đầu lên nhìn, thì chẳng thấy người thuyết pháp nữa. Lúc đó bèn đốn ngộ đạo lý "người không pháp không". [b]Những vị đại Bồ Tát nầy, đều chứng được giải thoát của Phật. Buông xả đặng, thì đắc được tự tại, tự tại tức là giải thoát. Cảnh giới nầy sâu như biển cả, rộng như pháp giới. Các Ngài trong quá khứ, đã từng làm thầy của Phật Thích Ca Mâu Ni, bây giờ lại làm đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni. [/b]Cho nên nói cảnh giới nầy, sâu rộng quảng đại, chẳng giống như phàm phu chúng ta, có tâm chấp trước, các Ngài chẳng có tâm chấp trước. Tùy phương tiện nhập vào một bậc, mà dùng sở trì của tất cả biển nguyện, thường cùng với trí huệ, suốt thuở vị lai thấu rõ được cảnh giới, rộng lớn bí mật hiếm có của chư Phật, khéo biết tất cả các pháp bình đẳng của chư Phật. Những vị Bồ Tát nầy tùy thuận pháp phương tiện, mà nhập vào tất cả các bậc. Pháp phương tiện chẳng dễ gì thực hành, xem ra là phương tiện, nhưng thực hành thì chẳng phương tiện. Ðịa vị Bồ Tát thực hành thì phương tiện, nhưng địa vị phàm phu thực hành, thì chẳng tự tại chút nào.[b] Bồ Tát tu hành thì phải phát hạnh nguyện, nguyện phải lớn, hạnh phải chân thật. Nếu phát nguyện không lớn thì có lúc sẽ sinh tâm thối chuyển.[/b] Cho nên tín, nguyện, hạnh như đỉnh ba chân, thiếu một thì không được. 1. Tín tâm : Trước hết phải sinh tâm tin. Cho nên : [b]"Tin là nguồn gốc mẹ công đức, Dưỡng lớn tất cả các căn lành".[/b] Tin pháp do chính đức Phật nói ra, tin Kinh điển là pháp của Phật nói. 2.[b] Nguyện lực : Sinh tâm tin rồi, thì phải phát nguyện rộng lớn, rộng như biển cả, như thế thì mới sinh ra được sức lực, để giáo hóa chúng sinh.[/b] 3. Hành : [b]Phát nguyện mà không thực hành, thì như hoa nở trong hư không, chẳng kết được quả thật,[/b] chẳng có ích gì. Dùng nguyện lực để chi trì, và trợ giúp thì thường cùng với trí huệ. Có trí huệ thì thường sinh chánh tri chánh kiến, không có trí huệ thì sinh tà tri tà kiến. Chánh tri chánh kiến, thì đi trên con đường của Phật, tà tri tà kiến thì đi vào địa ngục. Nếu muốn không đọa địa ngục, thì phải có chánh tri chánh kiến. Bồ Tát suốt kiếp thuở vị lai, mới biết rõ cảnh giới, rộng lớn vô biên không thể nghĩ bàn, hy kỳ ít có của chư Phật. Các Ngài đều biết [b]sự thực hành của chư Phật, là pháp bình đẳng, những gì chư Phật nói, là pháp bình đẳng,[/b] [b]pháp chứng đắc của chư Phật, cũng là pháp bình đẳng.[/b] Do đó :"Phật Phật đạo đồng", thể tính bình đẳng, pháp thân không hai. Trí huệ bình đẳng, tức không tăng không giảm, trong ngoài bình đẳng, bi nguyện ứng khắp. Ðã đạt được bậc phổ quang minh của Như Lai. Nhập vào biển Tam muội vô lượng môn. Ðều tùy loại mà hiện thân khắp tất cả chỗ. Ðồng với thế gian mà thật hành pháp thế gian. Những vị Bồ Tát nầy, đã đạt đến bậc phổ quang minh của Phật. Bậc phổ quang minh tức là bậc trí huệ. Vì các Ngài cung hành thực tiễn pháp của Phật dạy, cho nên mới đắc được trí huệ chân thật của Phật. Ðịnh lực của các Ngài như biển cả, cho nên các Ngài nhập vào biển Tam muội vô lượng môn. Những vị Bồ Tát nầy trong tất cả thời, tất cả chỗ đều tùy thuận chúng sinh, mà hoá hiện thân tướng của họ. Tất cả những việc làm của pháp thế gian, các Ngài dùng công việc giống nhau, mà hiện ra ở trước họ. Chúng sinh làm gì ? Thì các Ngài làm như vậy, dùng bốn Pháp Nhiếp đả thành một phiến với chúng sinh. Khiến cho chúng sinh sinh ra cảm tình, rồi mới thuyết pháp cho họ, giáo hóa họ, khiến cho họ lìa khổ được vui. Nay giải thích đơn giản Bốn Pháp Nhiếp. 1. Bố thí :[b] Ban cho chúng sinh những gì cần thiết, sau đó tiếp dẫn cảm hóa họ.[/b] 2. Ái ngữ : [b]Dùng lời hay tốt khuyên họ, để hóa độ họ đạt được mục đích.[/b] 3. Lợi hành :[b] Thân miệng ý khéo làm lợi ích cho chúng sinh[/b] 4. Ðồng sự : Tức là làm cùng việc, cùng nghề với chúng sinh để cảm hóa họ. Tổng trì rộng lớn, tích tập tất cả biển pháp, biện tài khéo léo, chuyển bánh xe pháp bất thối. Công đức của tất cả Như Lai, rộng lớn như biển cả, đều nhập vào thân các Ngài. Tất cả cõi nước của chư Phật, các Ngài đều phát nguyện đi đến. Những vị Bồ Tát nầy đều "tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa", rộng lớn vô cùng. Các Ngài đem tám vạn bốn ngàn pháp môn đều tích tập vào thân. Biện tài vô ngại của các Ngài, và phương tiện khéo léo vô tận, các Ngài chuyển bánh xe pháp, vĩnh viễn không thối chuyển, tu đạo chỉ tiến về trước mà không thối lùi về sau. Tất cả biển công đức của tất cả Như Lai, đều nhập vào trong một thân của Bồ Tát. Tất cả cõi nước của mười phương chư Phật, đều tùy theo nguyện lực của Bồ Tát mà vãng sinh. Các Ngài đã từng cúng dường tất cả các đức Phật, trải qua không biết bao nhiêu số kiếp, luôn luôn hoan hỉ không biết nhàm mỏi. Chỗ của tất cả Như Lai chứng được bồ đề, các Ngài thường ở trong đó thân căn không rời, luôn đem biển hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền đã chứng được, khiến cho tất cả chúng sinh đều đầy đủ trí thân, mà thành tựu vô lượng công đức như vậy. Những vị Bồ Tát nầy trong đại kiếp, nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết (không thể nói không thể nói) về trước, đã từng cúng dường hết thảy tất cả chư Phật, khen ngợi Phật, luôn luôn hoan hỉ mà không biết nhàm mỏi. Tất cả chỗ chư Phật khai ngộ, chứng được quả vị Phật, các vị Bồ Tát nầy đều đến Bồ Ðề Ðạo Tràng, thân cận gần gũi thường làm chúng ảnh hưởng, chúng thường đi theo, chúng hộ pháp, chúng nghiêm hội, chúng cúng dường, chúng phát tâm, chúng đương cơ, chúng biểu pháp, thường ở trong đạo tràng ủng hộ pháp hội. Những vị Bồ Tát nầy, thường dùng biển đại hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, khiến cho tất cả chúng sinh, chứng đắc được thân trí huệ. Những vị Bồ Tát nầy, thành tựu được vô lượng vô biên công đức như vậy. Những gì đã giảng ở trên là "đồng sinh chúng" (chúng sinh giống nhau), hai mươi vị đại Bồ Tát nầy xuất lãnh vô lượng quyến thuộc, đồng đến Bồ Ðề Ðạo Tràng ở trong pháp hội. Pháp hội Hoa Nghiêm chia làm mười bộ chúng bây giờ đã giảng xong. Bây giờ bắt đầu giảng "dị sinh chúng" (chúng sinh khác nhau). Dị sinh chúng phân làm ba bộ phận lớn. 1. Tạp loại chư Thần chúng. 2. Bát bộ Tứ Vương chúng. 3. Dục giới, sắc giới chư thiên chúng. Ở trong các Thần chúng tạp loại, có mười chín chúng, trong bát bộ Tứ Vương chúng có tám chúng, trong dục giới, sắc giới chư Thiên chúng có mười hai chúng. Tổng cộng có ba mươi chín chúng. Ở trong mỗi chúng lại có mười vị làm thượng thủ, tổng cộng có ba trăm chín mươi vị dị sinh chúng. Các Ngài cũng xuất lãnh vô lượng quyến thuộc đến Bồ Ðề Ðạo Tràng làm thiện thần hộ pháp. Lại có các vị Thần Chấp Kim Cang, số đông như hạt bụi Phật thế giới. Lại có Thần Chấp Kim Cang, số đông như hạt bụi Phật thế giới. [b]Thần Chấp Kim Cang tức là hộ pháp thiện thần, tay cầm chày kim cang. Các Ngài chuyên hàng phục thiên ma ngoại đạo, làm cho chúng không nhiễu loạn thân tâm của người tu hành.[/b] Khiến cho người tu hành, thân tâm thanh tịnh, một lòng một dạ tham thiền đả tọa. Người tại gia cư sĩ đều là người hộ pháp, hộ trì Tam Bảo, cúng dường Tam Bảo, thân cận thừa sự Tam Bảo, cư sĩ đều có trách nhiệm hộ pháp, phải ủng hộ Tam Bảo, trang nghiêm Tam Bảo, không thể phá hoại Tam Bảo, phỉ báng Tam Bảo. Tam Bảo là gì ? Tức là : Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo. [b]Phải cung kính, phải lễ bái, kiền thành cảm ứng đạo giao, mới đắc được lợi ích của Tam Bảo.[/b] Những vị Thần Chấp Kim Cang là : Thần Chấp Kim Cang Diệu Sắc Na La Diên. Thần Chấp Kim Cang Nhật Luân Tốc Tật Tràng. Thần Chấp Kim Cang Tu Di Hoa Quang. Thần Chấp Kim Cang Thanh Tịnh Vân Âm. Thần Chấp Kim Cang Chư Căn Mỹ Diệu. Thần Chấp Kim Cang Khả Ái Lạc Quang Minh. Thần Chấp Kim Cang Ðại Thụ Lôi Âm. Thần Chấp Kim Cang Sư Tử Vương Quang Minh. Thần Chấp Kim Cang Mật Diệm Thắng Mục. Thần Chấp Kim Cang Liên Hoa Quang Ma Ni Kế. Vị Thần Chấp Kim Cang thứ nhất tên là Diệu Sắc Na La Diên. Vị nầy thấy tướng tốt trang nghiêm của Như Lai vĩnh viễn không hoại, do đó vị nầy cũng chứng được pháp bất hoại nầy. Cho nên gọi là Na la diên, dịch là "kiên cố". Vị Thần Chấp Kim Cang thứ hai là Nhật Luân Tốc Tật Tràng. Vị nầy thấy quang minh của Như Lai, như ánh sáng mặt trời, hiện đủ loại tia sáng, cấp tốc tiêu diệt phiền não chướng ngại. Vị nầy chứng được pháp tràng trang nghiêm, cho nên được tên nầy. Vị Thần Chấp Kim Cang thứ ba là Tu Di Hoa Quang. Vị nầy thấy thân của Như Lai phóng quang chiếu khắp tất cả, giống như núi Tu Di, hiển hiện như biển cả. Thần thông của vị nầy như hoa sen phóng quang minh, cho nên được tên nầy. Vị Thần Chấp Kim Cang thứ tư là Thanh Tịnh Vân Âm. Âm thanh của vị nầy, thanh tịnh phi thường, vang dội trong mây, giống như sấm sét, cho nên được tên nầy. Vị Thần Chấp Kim Cang thứ năm là Chư Căn Mỹ Diệu. Vị nầy hiện làm chủ thế gian, dùng các căn : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ý mỹ diệu, khiến cho tất cả chúng sinh đều khai ngộ, cho nên được tên nầy. Vị Thần Chấp Kim Cang thứ sáu là Khả Ái Lạc Quang Minh. Vị nầy dùng trí huệ quang minh để diễn nói Phật pháp, khiến cho người nghe, sinh tâm vui thích tin nhận, cho nên được tên nầy. Vị Thần Chấp Kim Cang thứ bảy là Ðại Thụ Lôi Âm. Vị nầy dùng bảy báu nghiêm sức diệu tướng. Dùng hoa báu để trang nghiêm cây, phương tiện cảnh cáo chúng sinh, không thể sinh tâm thối chuyển, âm thanh của vị nầy như sấm, cho nên được tên nầy. Vị Thần Chấp Kim Cang thứ tám là Sử Tử Vương Quang Minh. Phước báu của vị nầy sâu dày phi thường, tướng mạo của vị nầy, cũng tốt đẹp phi thường, như sư tử vương, không sợ sệt bất cứ chỗ nào, cho nên được tên nầy. Vị Thần Chấp Kim Cang thứ chín là Mật Diệm Thắng Mục. Mắt từ bi của vị nầy, có tia sáng lửa ngọn cát tường, mật hiện ở trước chúng sinh, cho nên được tên nầy. Vị Thần Chấp Kim Cang thứ mười là Liên Hoa Quang Ma Ni Kế. Vị nầy có quang minh hoa sen, và có diệu kế ma ni báu, cho nên được tên nầy. Có số đông Thần Chấp Kim Cang, nhiều như hạt bụi Phật thế giới như vậy làm thượng thủ. Những vị Thần Chấp Kim Cang nầy, đều là thượng thủ trong chúng Thần Kim Cang. Nếu nói tỉ mỉ tên các vị Thần Kim Cang thì nhiều như số hạt bụi Phật thế giới, nói không hết được. Kinh Hoa Nghiêm bất cứ nói pháp môn gì, cũng đều nói mười. Vì sao ? Vì mười là biểu thị mười lần mười thành trăm, mười lần trăm thành ngàn, mười lần ngàn thành vạn. Mười là số đại biểu trăm ngàn vạn ức. Nếu nói số trăm ngàn vạn ức thì quá nhiều, cho nên chỉ dùng mười. Kinh Hoa Nghiêm được cất giữ ở dưới Long Cung, cộng hết thảy có ba quyển :[b] Thượng, trung và hạ. Bây giờ chúng ta đang giảng, là quyển hạ của Kinh Hoa Nghiêm. Số Thần Kim Cang nói ở trong quyển thượng dùng số ức làm đơn vị. Số Thần Kim Cang nói ở trong quyển trung, dùng số vạn làm đơn vị. Số Thần Kim Cang nói ở trong quyển hạ nầy, dùng số mười làm đơn vị. Mười nầy là biểu thị vô lượng. Vì chúng ta phàm phu không nhớ hết số vị Thần nhiều như thế, cho nên dùng mười để tượng trưng.[/b] Các vị Thần này, ở trong vô lượng kiếp quá khứ, thường phát nguyện lớn. Nguyện thường gần gũi cúng dường chư Phật. Theo hạnh nguyện mà thực hành, thảy đều đã viên mãn, đến được bờ bên kia. [b]Những vị Thần Chấp Kim Cang nầy, rất lâu xa trong quá khứ, vô lượng kiếp về trước, thường phát nguyện lực rất lớn. Nguyện lực gì ? Tức là phát nguyện luôn luôn cùng với chư Phật, gần gũi chư Phật, cúng dường chư Phật. Chư Phật đi đến đâu, các Ngài đều theo đến đó. Vì các Ngài phát đủ thứ nguyện lớn, thường theo học Phật. Những lời nguyện nầy, và hạnh môn đã viên mãn, cho nên đến được bờ bên kia.[/b] Các Ngài tích tập vô biên phước nghiệp thanh tịnh. Cảnh giới thực hành ở trong các Tam muội đều đã thông đạt. Ðắc được thần thông lực, theo ở với Như Lai, nhập vào cảnh giới giải thoát không nghĩ bàn. Oai đức và quang minh của các Ngài, đặc biệt thông đạt trong chúng hội. Tùy loại chúng sinh mà hiện thân để giáo hóa điều phục. Tất cả các hóa Phật ở chỗ nào, thì các Ngài đều hóa theo ở chỗ đó. Tất cả chỗ Như Lai ở, các Ngài thường xuyên hộ vệ. Những vị Thần Chấp Kim Cang nầy, đều tích tập vô lượng vô biên phước nghiệp thanh tịnh. Ở trong tất cả thiền định, đắc được Tam muội gì, thì có thứ cảnh giới đó. Các Ngài đều thấu rõ thông đạt vô ngại. Những vị Thần Chấp Kim Cang nầy, đều đắc được đủ loại thần thông lực, thường theo ở với Phật, hộ trì Tam Bảo, còn đắc được cảnh giới giải thoát không thể nghĩ bàn. Những vị Thần Chấp Kim Cang nầy, ở trong đại chúng hội, đều có oai quang đặc biệt, đều thông đạt, chẳng giống quang minh của một số Hộ Pháp thiện thần khác. Các Ngài tùy theo loại chúng sinh, mà hiện thân để giáo hóa điều phục, khiến cho tất cả chúng sinh, thấy các Ngài thì liền phát bồ đề tâm, trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh. Những vị Thần Chấp Kim Cang nầy, đều theo nguyện lực của các Ngài, đã phát trong quá khứ, để hóa hiện vào trong cõi nước, mà chư Phật hóa hiện, phàm là chỗ các Như Lai ở, các Ngài luôn luôn bảo hộ chư Phật, không để cho thiên ma nhiễu loạn. Ở trên là chúng thứ nhất Thần Chấp Kim Cang. Lại có Thần Thân Chúng số đông như hạt bụi Phật thế giới. Tên của các Ngài là : Thần Thân Chúng Hoa Kế Trang Nghiêm. Thần Thân Chúng Quang Chiếu Thập Phương. Thần Thân Chúng Hải Âm Ðiều Phục. Thần Thân Chúng Tịnh Hoa Nghiêm Kế. Thần Thân Chúng Vô Lượng Oai Nghi. Thần Thân Chúng Vô Lượng Quang Nghiêm. Thần Thân Chúng Tịnh Quang Hương Vân. Thần Thân Chúng Thủ Hộ Nhiếp Trì. Thần Thân Chúng Phổ Hiện Nhiếp Thủ. Thần Thân Chúng Bất Ðộng Quang Minh. Vị Thần Thân Chúng thứ nhất là, Hoa Kế Trang Nghiêm. Vì vị nầy dùng hoa kế để trang nghiêm, cho nên được tên nầy. Vị Thần Thân Chúng thứ hai là, Quang Minh Thập Phương. Vì quang minh của vị nầy chiếu khắp mười phương thế giới, cho nên được tên này. Vị Thần Thân Chúng thứ ba là, Hải Âm Ðiều Phục. Vì âm thanh của vị nầy, như tiếng hải triều, khiến cho tất cả chúng sinh, nghe được âm thanh nầy, thì cải ác hướng thiện, phát bồ đề tâm, cho nên được tên nầy. Vị Thần Thân Chúng thứ tư là, Tịnh Hoa Nghiêm Kế. Vì vị nầy dùng hoa sen thanh tịnh, để trang nghiêm bảo kế, cho nên được tên nầy. Vị Thần Thân Chúng thứ năm là, Vô Lượng Oai Nghi. Vì vị nầy thường hiện vô lượng vô biên oai nghi, đi đứng nằm ngồi đều hợp pháp, cho nên được tên nầy. Vị Thần Thân Chúng thứ sáu là, Tối Thượng Hoa Nghiêm. Vì vị nầy thường phát ra quang minh tối thượng, để trang nghiêm đạo tràng, cho nên được tên nầy. Vị Thần Thân Chúng thứ bảy tên là, Tịnh Quang Hương Vân. Vì vị nầy không những có quang minh thanh tịnh, mà còn có mây thanh hương. Cho nên được tên nầy. Vị Thần Thân Chúng thứ tám là, Thủ Hộ Nhiếp Trì. Vì vị nầy thường thủ hộ đạo tràng, nhiếp trì chúng sinh, khiến cho chúng sinh cải ác hướng thiện, sửa lỗi làm mới, cho nên được tên nầy. Vị Thần Thân Chúng thứ chín là, Phổ Hiện Nhiếp Thủ. Vì vị nầy có thể hiện khắp trước chúng sinh, để nhiếp thủ họ, khiến cho họ phát bồ đề tâm, cho nên được tên nầy. Vị Thần Thân Chúng thứ mười là, Bất động Quang Minh. Vì vị nầy có định lực tâm bất động, lại có quang minh, cho nên được tên nầy. Có số đông Thần Thân Chúng, nhiều như hạt bụi Phật thế giới như vậy làm thượng thủ. Trong quá khứ, các vị Thần này, đều thành tựu nguyện lớn, cúng dường thừa sự tất cả chư Phật. Mười vị Thần Thân Chúng nầy, làm lãnh tụ ở trong các Thần Thân Chúng, ngoài ra còn có vô lượng vô biên Thần Thân Chúng, nhiều như số hạt bụi Phật thế giới. Những vị Thần Thân Chúng nầy, trong quá khứ đều phát nguyện lớn. Phát nguyện lớn gì ? Các vị Thần nầy phát nguyện cúng dường tất cả chư Phật, cung kính thừa sự tất cả chư Phật. Trên đây là chúng thứ hai Thần Thân Chúng. Lại có Thần Túc Hành số đông như hạt bụi Phật thế giới. Ðó là : Thần Túc Hành Bảo Ấn Thủ. Thần Túc Hành Liên Hoa Quang. Thần Túc Hành Thanh Tịnh Hoa Kế. Thần Túc Hành Nhiếp Chư Thiện Kiến. Thần Túc Hành Diệu Bảo Tinh Tràng. Thần Túc Hành Lạc Thổ Diệu Âm. Thần Túc Hành Chiên Ðàn Thụ Quang. Thần Túc Hành Liên Hoa Quang Minh. Thần Túc Hành Vi Diệu Quang Minh. Thần Túc Hành Tích Tập Diệu Hoa. Lại có Thần Túc Hành số đông như hạt bụi Phật thế giới. Thần Túc Hành tức là thần thủ hộ đường xá, vì các vị thần nầy ngưỡng mộ đức của Như Lai, cho nên theo dấu chân Như Lai. Vị Thần Túc Hành thứ nhất là Bảo Ấn Thủ. Vì trong tay của vị nầy cầm giữ bảo ấn để hộ trì chúng sinh, cho nên được tên nầy. Vị Thần Túc Hành thứ hai là Liên Hoa Quang. Vì liên hoa phóng quang, cho nên được tên nầy. Vị Thần Túc Hành thứ ba là Thanh Tịnh Hoa Kế. Vì vị nầy có hoa kế thanh tịnh, cho nên được tên nầy. Vị Thần Túc Hành thứ tư là Nhiếp Chư Thiện Kiến. Vì khi chúng sinh thấy vị nầy, liền phát tâm bồ đề, cho nên được tên nầy. Vị Thần Túc Hành thứ năm là Diệu Bảo Tinh Tràng. Vì diệu bảo của vị nầy phóng quang giống như tinh tràng, cho nên được tên nầy. Vị Thần Túc Hành thứ sáu là Lạc Thổ Diệu Âm. Vì âm thanh ca xướng của vị nầy, vi diệu phi thường, rất êm tai, cho nên được tên nầy. Vị Thần Túc Hành thứ bảy là Chiên Hành Thụ Quang. Vì quang minh của vị nầy, phóng ra giống như hương cây chiên đàn, khiến cho tất cả chúng sinh ngửi được mùi hương nầy, thì khai mở trí huệ quang, cho nên được tên nầy. Vị Thần Túc Hành thứ tám là Liên Hoa Quang Minh. Vì quang minh của vị nầy phóng ra thanh tịnh như hoa sen, cho nên được tên nầy. Vị Thần Túc Hành thứ chín là Vi Diệu Quang Minh. Vì vị nầy phóng quang minh, vi diệu không thể nghĩ bàn, cho nên được tên nầy. Vị Thần Túc Hành thứ mười là Tích Tập Diệu Hoa. Vì vị nầy tích tập tất cả diệu bảo hoa, cho nên được tên nầy. Có các vị Thần Túc Hành, nhiều như số hạt bụi Phật thế giới làm thượng thủ. Các vị Thần Túc Hành nầy, ở trong vô lượng kiếp quá khứ, đều gần gũi Như Lai, theo đuổi tu hành không muốn lìa xa. Mười vị Thần Túc Hành nầy, làm lãnh tụ trong các Thần Túc Hành mà làm thượng thủ, quyến thuộc Thần Túc Hành của các vị nầy, nhiều như số hạt bụi Phật thế giới. Những vị Thần Túc Hành nầy, trong vô lượng kiếp quá khứ, đều gần gũi Như Lai, cúng dường Như Lai, theo đuổi tu hành, không muốn rời bỏ. Trên đây là chúng thứ ba Thần Túc Hành. http://tuvienhuequang.com/index.php/phap-thoai-giang-luc/190-kinh-hoa-nghiem-giang-giai/1457-kinh-hoa-nghiem-giang-giai-3

Không có nhận xét nào: