Thứ Năm, 6 tháng 8, 2009

Chú đại Bi Giảng Giải (3)

Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối.

13. Hê Rị Ma Ha Bàn Ða Sa Mế. "Hê Rị": Dịch ra nghĩa là "tâm". Tâm này là tâm gì ? Tức là tâm chẳng nhiễm ô. Tâm chẳng nhiễm ô, tức cũng là tâm thanh tịnh. Nếu bạn có tâm tham, sân, si, mạn, nghi, đủ thứ tâm chẳng thanh tịnh thì biến thành tâm nhiễm ô. Hiện tại là tâm chẳng nhiễm ô.


"Ma Ha Bàn Ða Sa Mế". "Ma Ha" : Ý nghĩa vẫn là ‘đại’ (lớn). "Bàn Ða Sa Mế": Nghĩa như thế nào ? Tôi không nói ra thì chắc chắn bạn chẳng biết, cho nên tôi nói ra thì bạn mới biết. Một khi tôi nói ra thì bạn nói : "Ồ ! Thì ra là thế". Bạn sẽ biết ngay. Ðại gì ? Ðại quang minh. Còn có lối dịch khác nữa, nghĩa là gì ? Chữ "Ma Ha" đại này cũng có thể dịch thành chữ "trường", trường chiếu minh, luôn luôn chiếu sáng.

Có người nói : "Ðại quang minh này, tôi đã nghe giảng Kinh rất nhiều lần". Song, trong Chú Ðại Bi có ý nghĩa này, nếu tôi không giảng thì bạn đâu có biết. Tôi nói cho các bạn biết, Chú Ðại Bi chẳng dễ gì gặp được người giảng cho các bạn nghe. Thật tình mà nói, vốn cũng chẳng có ai giảng được, chẳng ai biết Chú Ðại Bi cứu kính như thế nào. Có người nói :"Vậy sao Hòa Thượng lại biết ?" Bạn đừng hỏi tôi, vì tôi chẳng hỏi bạn thì bạn không thể hỏi tôi sao tôi lại biết ? Tự nhiên tôi biết, nếu tôi không biết thì tôi đâu có giảng cho bạn nghe ? Bạn đừng có hỏi tôi sao tôi lại biết mà bạn phải hỏi chính bạn, sao bạn lại không biết ? Nếu bạn biết sao bạn lại không biết thì bạn sẽ biết sao tôi lại biết; nếu bạn không biết vì sao bạn lại không biết thì bạn cũng chẳng biết vì sao tôi lại biết, chỗ diệu là tại chỗ này.

Giống như có một người hỏi tôi :"Vì sao Hòa Thượng đi xuất gia ?" Tôi chẳng đáp tại sao tôi xuất gia mà tôi hỏi anh ta :"Vì sao anh không xuất gia ?" Nếu anh biết tại sao anh không xuất gia thì anh biết tại sao tôi xuất gia, cũng đồng đạo lý ấy. Bạn hỏi tôi sao tôi lại hiểu, bạn hãy tự hỏi bạn vì sao bạn không hiểu ? Thì bạn sẽ biết vì sao tôi hiểu.

Bây giờ các bạn gặp được sự giảng giải Chú Ðại Bi, đều là người có căn lành lớn, cho nên các bạn phải tự mình bảo hộ căn lành của mình, tự mình thương tiếc căn lành của mình, tự mình lợi dụng căn lành cố hữu của bạn để học tập Phật pháp.

Hiện nay chúng ta sinh vào thời đại mạt pháp, tất cả chư Phật rất ít đến thế giới nầy, tất cả Bồ Tát cũng rất ít đến thế giới nầy. Vào thời đại mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối, chẳng dễ gì gặp được chánh pháp, cũng chẳng dễ gì gặp bậc tu hành. Cho nên lần này tôi nghĩ ở Ðài Loan có Chùa mở đại giới đàn bèn gởi năm người (năm vị đệ tử người Mỹ đầu tiên) đến Ðài Loan thọ giới. Năm người này sau khi thọ giới xong trở về nói :"Có rất nhiều người kêu họ đừng tu hành". Bạn nghĩ xem, chúng ta là chúng sinh, không tu hành thì làm sao có thể thành Phật đặng ? Làm sao không tu hành mà có thể liễu đạo được ? Nếu bạn chẳng tu hành mà có thể thành Phật, có thể liễu đạo được thì lúc ban sơ Phật cũng chẳng cần tu khổ hạnh, tham thiền đả tọa sáu năm ở tại núi Tuyết, sau đó đến dưới cội bồ đề ngồi bốn mươi chín ngày, ban đêm thấy sao mai mộc mà ngộ đạo. Ðức Phật còn phải tu hành mới có thể thành Phật; chúng ta chúng sinh nếu không tu hành thì làm sao có thể thành Phật ? Ai ai cũng biết tu hành mới có thể thành Phật, song, người tu hành thì rất ít; ai ai cũng biết không tu hành thì sẽ đọa địa ngục, song, người chẳng tu hành thì không biết bao nhiêu mà nói. Thời đại mạt pháp, nếu chúng ta nghe thấy Phật pháp thì hãy dũng mãnh tinh tấn, từng giờ từng phút, đừng nên lười biếng, tinh tấn dụng công tiến về trước, mới có thể có sự thành tựu. Nếu chẳng dũng mãnh tinh tấn mà muốn thành tựu, thì không bao giờ có được. Cho nên mọi người đừng sợ khổ, đừng sợ khó khăn, trong sự bận rộn, phấn chấn tinh thần lên, phải hăng hái tu hành, dũng mãnh dụng công tiến về trước để nỗ lực học Phật pháp.

Phật pháp mà tôi nói rất diệu, song, nếu bạn chẳng tin thì đối với bạn cũng chẳng có ích lợi. Phật pháp mà tôi nói, nói đến nỗi chẳng có ý nghĩa gì hết, mà bạn thật tâm tu hành thì đối với bạn cũng là diệu pháp; diệu pháp mà tôi nói nếu bạn chẳng thực hành thì đối với bạn cũng chẳng phải là diệu pháp. Cho nên chúng ta tu hành phải từng giờ từng phút tinh tấn tiến về trước, đừng lùi về sau, đừng sinh tâm lười biếng, đây là điều quan trọng nhất. Nếu từng giờ từng phút bạn tinh tấn tiến về trước thì chắc chắn có một ngày bạn sẽ nhận ra bộ mặt thật của bạn.

Vào thời vua Lương Võ Ðế, Thiền Sư Chí Công là bậc tu hành có đức hạnh, chẳng có ai biết cha mẹ của Ngài là ai. Một ngày nọ, có một phụ nữ nghe tiếng trẻ con khóc ở trên cây, bèn trèo lên cây thì thấy đứa bé nằm trong tổ chim ưng, bà ta bồng em bé về nhà nuôi dưỡng. Em bé này tướng mạo tựa như hình người , song, tay chân tựa như móng chim ưng. Lớn lên rồi xuất gia tu đạo, khai ngộ đắc ngũ nhãn lục thông. Vì chẳng có ai biết cha mẹ của Ngài là ai, lượm Ngài từ tổ chim ưng, cho nên một số người đều cho rằng Ngài từ trứng chim nở ra.

Vào thời đó, vua Lương Võ Ðế rất tin tưởng Thiền Sư Chí Công, mà một số người khác cũng rất tin Ngài, bất cứ trường hợp gì, nào sinh đẻ, bạn bè chết, đám cưới, tang lễ .v.v., họ đều thỉnh mời Thiền Sư Chí Công đi tụng Kinh. Một lần nọ, có một gia đình giàu có thỉnh Thiền Sư Chí Công đến tụng Kinh cho cuộc hôn nhân và thỉnh Ngài trong cuộc hôn lễ nói vài câu cát tường, khiến cho cuộc hôn nhân thuận lợi tốt đẹp.

Thiền Sư Chí Công đến đó, vừa thấy chú rể và cô dâu bèn nói :"Cổ cổ quái, quái quái cổ, tôn tử thú tổ mẫu". Nghĩa là sự việc này xưa nay chẳng có, đây là sự việc chẳng tầm thường, việc rất kỳ quái, ai đời cháu lại cưới bà ngoại. Trên thế giới này, mọi người làm vợ chồng với nhau, làm cha con với nhau, làm mẹ con với nhau. Nếu bạn chẳng biết nhân duyên trong đời quá khứ thì bạn chẳng hiểu rõ tại sao ông nội của bạn trong kiếp trước, đời nay đến kết hôn với bạn ? hoặc là bà ngoại của bạn lại đầu thai làm con của bạn ? Ðây hoàn toàn không nhất định.

Sự việc "cháu cưới bà ngoại" này, là vì trước khi bà ngoại qua đời, bà ta nói với mọi người :"Cháu của ta chẳng còn cha mẹ của nó, tương lai ai sẽ săn sóc cho nó ? Vợ tương lai của nó có tốt với nó chăng ? Tôi thật rất lo cho nó lắm !". Lúc đó, bà ta nắm tay người cháu nói :"Cháu ơi ! Bà không đành bỏ cháu ra đi, bà chết rồi, cũng không nhắm mắt". Mắt không nhắm cũng vẫn chết, bà ta chết chẳng nhắm mắt. Ðến trước mặt vua Diêm Vương, còn muốn yêu cầu săn sóc cho cháu của bà ta, nói :"Cháu của tôi, tôi thấy chẳng có ai săn sóc cho nó, tôi thật lo cho nó !" Vua Diêm Vương nói :"Tốt lắm, vậy thì bà về săn sóc cho nó !" Do đó lập tức cho bà ta đi đầu thai; lớn lên rồi thì cho bà ta làm vợ người cháu. Do đó gọi là "cháu cưới bà ngoại". Bà ngoại chẳng buông bỏ được người cháu, trở lại bèn làm vợ của người cháu, bạn nó có phải là cổ cổ quái, quái quái cổ chăng ? hay là chẳng phải cổ cổ quái, quái quái cổ ?

Ngài Chí Công tại sao biết được? Vì Ngài Chí Công có ngũ nhãn lục thông, khi Ngài vừa gặp cô dâu chú rể thì cô dâu vốn là bà ngoại, vì bà ta một niệm buông xả chẳng đặng, cho nên phải trở lại làm vợ của người cháu.

Thiền Sư Chí Công lại nhìn mọi người thì thấy có một cô con gái cầm miếng thịt ăn, Ngài lại nói :"Con ăn thịt mẹ". Miếng thịt mà cô con gái đang ăn, vốn là thịt của mẹ cô đầu thai làm dê, bây giờ con dê này bị giết, cô ta cầm thịt dê này lên ăn.

Ngài liền nhìn người đánh trống bèn nói :"Con đánh trống cha". Da trống này chính là cha của anh ta đầu thai làm lừa, con lừa này bị giết, lấy da bịt làm trống. Ngài lại nhìn vào các dãy bàn bèn nói :"Heo dê ngồi vào bàn". Những loài heo, dê này, kiếp trước bị họ ăn thịt, bây giờ đều tái sinh làm người, đều làm bà con, làm bạn bè với họ, cho nên đều đến nhà đó để dự hôn lễ.

"Lục thân nấu trong nồi", thân tộc bên cha, thân tộc bên mẹ, thân tộc bên anh bên em, tất cả bạn bè, thân hữu trước kia ăn thịt heo, thịt dê, bây giờ đều biến thành heo, dê, lại bị họ giết bỏ vào nồi nấu

"Mọi người đến chúc mừng". Mọi người đến đó, thấy anh ta cưới cô dâu đều nói :"Chúc mừng anh !" Người này đến chúc mừng, người kia đến chúc mừng, cảnh trạng như thế, "tôi thấy đó là khổ", tôi thấy cảnh trạng như thế, tức là tạo nghiệp; tạo nghiệp nghĩa tức là khổ.

Do Ngài Chí Công nhìn thấu nhân quả của gia đình đó. Gia đình đó thì như thế, còn những gia đình khác, làm sao mà biết chẳng phải như thế ? Cho nên người tu đạo thì phải cẩn thận; lúc trồng nhân không cẩn thận thì khi hết quả phải gánh lấy. Vậy con người tại sao lại làm người ? Chúng ta làm người là đến để trả nợ. Trả nợ gì ? Trả nợ luân thường, trả nợ nhân quả thế gian. Bạn còn món nợ này thì phải trả món nợ này, bạn không trả thì không được, cũng như chúng ta mượn tiền của người thì phải trả tiền cho người; bạn không trả thì nợ không dứt được. Con người trên thế gian cũng như thế.

Tôi lại nhớ đến một câu chuyện. Có một gia đình nọ nuôi một con lừa, hằng ngày bắt con lừa chuyên chở nặng nề. Anh ta thấy con lừa đi chậm thì hằng ngày đều dùng cây chổi tre đánh con lừa, ngày nào cũng đánh, kêu nó làm cho anh ta. Một đời làm xong rồi thì con lừa đó tái sinh làm người đàn ông; còn người đàn ông đánh con lừa đó thì tái sinh làm người đàn bà. Hai người này kết hôn với nhau. Kết hôn rồi bạn nói xảy ra chuyện gì ? Người đàn ông này suốt ngày cứ đánh người đàn bà này, bất cứ cầm cái gì thì đánh cái đó, hoặc là cầm đũa ăn cơm thì lấy đũa đánh, suốt ngày đánh chưởi nói cô ta làm gì cũng không đúng. Một ngày nọ, Thiền Sư Chí Công đến thì cô ta bèn thưa rằng :" Chồng của con, không biết tại sao ngày nào cũng đánh con ? Ngài là người tu hành, đắc được ngũ nhãn lục thông, Ngài hãy xem nhân quả của chúng con như thế nào, tại sao ngày nào con cũng bị đánh ?" Thiền Sư Chí Công nói :" Chao ôi ! kiếp trước của con là người đàn ông, con dùng một con lừa để chuyên chở, mà con ngày nào cũng đánh con lừa đó, con lừa đó nay tái sinh làm chồng của con. Bây giờ con phải giải mở oán kết này, ta dạy con một phương pháp. Con hãy dọn dẹp hết đồ đạc lại, chỉ để lại một cây phất trần làm bằng đuôi ngựa. Con để cây phất trần ở đó thì anh ta thấy chẳng có gì khác để đánh, thì lấy cây phất trần đánh con; đánh con xong rồi thì con nói với anh ta, vì kiếp trước con là người đàn ông, còn anh ta là con lừa, vì bị con hằng ngày đánh, cho nên bây giờ anh ta cũng đánh con hằng ngày. Bây giờ anh ta dùng phất trần đuôi ngựa đánh con, chỉ một cái đánh thì có mấy trăm hèo. Cho nên anh ta đánh con một cái thì hôm nay đã trả xong món nợ trong quá khứ. Sau khi con nói rõ với anh ta thì anh ta sẽ không còn đánh con nữa".

Quả nhiên cô ta dẹp hết đồ đạc lại, chồng của cô ta về cũng chẳng nói năng gì thì muốn đánh cô ta, đi tìm đồ để đánh thì chẳng thấy, chỉ thấy phất trần bằng đuôi ngựa bèn lấy đánh. Trước kia anh ta đánh thì cô ta chạy, song, lần này đánh thì cô ta ngồi tại chỗ chịu đánh. Khi anh ta đánh xong rồi thì anh ta hỏi :"Sao lúc trước tôi đánh thì bà bỏ chạy, còn hôm nay tôi đánh thì bà sao chẳng bỏ chạy ?" Cô ta nói :"Ông không biết đâu, sở dĩ ông đánh tôi là có tiền nhân hậu quả. Hôm nay Thiền Sư Chí Công đến đây, tôi thỉnh giáo Ngài, tại sao ngày nào ông cũng đánh tôi ? Thì Ngài nói với tôi, kiếp trước ông là một con lừa, còn tôi là một người đàn ông, nuôi con lừa đó dùng để chở đồ, vì con lừa đi chậm nên hằng ngày tôi đều đánh con lừa đó; kiếp này ông đầu thai làm người đàn ông, còn tôi biến thành người đàn bà, hai người kết hôn, cho nên hằng ngày ông đều đánh tôi. Ngài dạy tôi để cây phất trần ở đó, đợi ông về đánh tôi thì tôi đừng bỏ chạy. Hôm nay ông đánh xong rồi thì sự tình của chúng ta chẳng còn nữa, về sau chẳng còn đánh nữa". Người chồng nghĩ :"Thì ra là như thế, từ nay về sau tôi không đánh nữa, nếu ngày nay tôi đánh bà thì ngày sau bà sẽ đánh tôi". Từ đó về sau hai vợ chồng chẳng còn đánh nhau nữa.

Từ đó có thể thấy, trên thế gian này ai với ai có duyên hoặc không có duyên, ai với ai là vợ chồng, cha con, anh em thì trong quá khứ đều có nhân quả, cho nên đời này mới làm quyến thuộc. Nếu chúng ta minh bạch nhân quả thì hãy sửa đổi nhân quả; phải làm việc tốt, đừng làm việc xấu.

Lúc trước tôi có nói Thiền Sư Chí Công mỗi ngày ăn hai con bồ câu, ngày nào cũng đều ăn như thế. Người làm bếp nghĩ rằng thịt bồ câu chắc rất là ngon, một ngày nọ trong sự "hữu ý vô ý". Hữu ý vô ý là gì ? Nghĩa là muốn thưởng thức, ở đây có hai ý nghĩa : Một là không biết hôm nay nấu như thế nào ? Hai là cho rằng Thiền Sư Chí Công ngày nào cũng ăn bồ câu, chắc chắn là rất ngon. Do đó, bèn thưởng thức rồi mới mang đến cho Ngài Chí Công. Ngài Chí Công ăn con bồ câu này bèn hỏi :"Hôm nay ai ăn lén bồ câu của ta ?". Người làm bếp nói :"Chẳng có ai ăn lén đâu". "Chẳng có ai ăn lén ? Chắc chắn là ngươi ăn lén". Người nấu bếp chẳng chịu nhận, nói :"Tôi không ăn". Ngài Chí Công nói :"Ngươi chẳng ăn ? Ta chứng cứ cho ngươi xem thử ngươi có ăn hay chăng ?" Ngài bèn hả miệng ra thì phun ra hai con bồ câu, có một con bay được, còn một con chẳng có cánh, bay không được. Ngài nói :" Ngươi xem đi, nếu ngươi chẳng ăn lén cánh bồ câu thì sao con bồ câu này bay không được ? Vậy cánh của nó đâu?". Người làm bếp từ đó mới biết Ngài Chí Công chẳng phải là người tầm thường, là Bồ Tát hóa thân. Cho nên ăn bồ câu nấu chín rồi mà vẫn có thể biến thành bồ câu sống. Nếu chẳng phải cảnh giới của Bồ Tát thì sao lại có cảnh trạng này ?

Ngài Thiền Sư Chí Công vẫn thường thường ăn một loại cá, thứ cá này gọi là ‘huệ ngư’. Ngài ăn cá này, cũng đã nấu chín ăn vào bụng, sau đó vẫn có thể phun ra biến thành cá sống. Ðó là cảnh giới của bậc Bồ Tát, đó đều là việc rất bình thường. Giống như Ngài Chí Công Thiền Sư là Bồ Tát chân chánh. Song, Thiền Sư Chí Công vốn chẳng nói với ai rằng :"Bạn biết tôi chăng ? Tôi là Bồ Tát, tôi muốn làm gì thì làm". Ngài chẳng bao giờ nói như thế. Cho nên chúng ta phàm phu thấy được Bồ Tát cũng chẳng nhất định biết rõ. Việc Bồ Tát làm với mọi người đều giống nhau, chỉ khác một chỗ là đa số mọi người làm chỉ biết lợi mình, chẳng giúp đỡ người khác; còn Bồ Tát thì lợi ích cho kẻ khác. Cho nên Bồ Tát khác với phàm phu là ở chỗ này. Bồ Tát thì tự lợi lợi tha, tự giác giác tha, tự độ độ tha. Chúng ta giảng Chú Ðại Bi, ý nghĩa trong Chú cũng đều là đạo lý này. 14. Tát Bà A Tha Ðậu Du Bằng. Câu Chú này phải chia ra ba câu để đọc, vì câu Chú này có ba ý nghĩa khác nhau.

"Tát Bà" : là tiếng Phạn, dịch là "tất cả". Tất cả ở đây nghĩa là "bình đẳng", do đó "Tát Bà" tức là nói "tâm bình đẳng".

"A Tha Ðậu" : Cũng là tiếng Phạn, dịch là "giàu sướng không nghèo". Giàu là giàu có, sướng là sung sướng. Tại sao giàu có sung sướng ? Vì không nghèo. Ðó là một lối dịch. Còn có một lối dịch khác là "như ý bất diệt". Như ý tức là bạn nghĩ gì thì theo ý của bạn mà thành tựu; bất diệt, nghĩa là thành tựu theo như ý, vĩnh viễn không tiêu diệt. Ở trong mười thứ tâm này, là nói về "tâm vô vi". Tâm vô vi này tức là giàu sướng không nghèo, cũng là như ý bất diệt.

"Du Bằng": Cũng là tiếng Phạn, dịch ra là "nghiêm tịnh vô ưu". Nghiêm tức là trang nghiêm; tịnh là thanh tịnh. Tức trang nghiêm lại thanh tịnh, thanh tịnh lại trang nghiêm, cho nên chẳng có ưu sầu. Nghĩa là nói về "tâm vô kiến thủ", kiến thủ là thuộc về một trong năm lợi sử, bạn nhìn thấy thì trong tâm có sự thủ trước nên gọi là tâm kiến thủ. 15. A Thệ Dựng. "A Thệ Dựng": Cũng là đại Phạm Thiên, dịch ra là nghĩa gì ? Tức là "pháp vô tỷ", pháp này chẳng có pháp nào sánh với nó. Còn gọi là "giáo vô tỷ", giáo này cũng chẳng có tôn giáo nào có thể sánh được. Trong mười thứ tâm thì thuộc về "tâm thấp kém", thấy ai cũng đều khiêm cung hòa mục và "tâm chẳng tạp loạn". Pháp này là pháp thanh tịnh chẳng nhiễm ô, tức cũng là Bát Nhã tâm pháp của Bồ Tát Quán Thế Âm. Chiếu theo Kinh Ðại Bi Ðà La Ni mà nói thì mười thứ tâm này là tướng mạo của Ðà La Ni. Cho nên chúng ta hãy chiếu theo Kinh Ðà La Ni để tu hành, chiếu theo Kinh Ðà La Ni để thành đạo chứng quả.

Không có nhận xét nào: