Niệm Phật hàng ngày trong thất niệm Phật là chúng ta gieo trồng chủng tử thành Phật. Mỗi tiếng niệm Phật là gieo trồng một chủng tử, mười tiếng niệm Phật là gieo trồng mười chủng tử. Nếu mỗi ngày quý vị niệm một triệu lần, quý vị dã gieo trồng một triệu chủng tử. Cứ niệm, đừng lo tâm tán loạn. - HT Tuyên Hóa
Thứ Sáu, 21 tháng 12, 2007
thiện ác theo đạo Phật
Câu hỏi: Nam Mô A Di Ðà Phật Kính bạch Sư Phụ, Như vậy thì khi con cầu mong người ta sớm tìm ra thuốc chữa bệnh SARS để những khóa học của Sư phụ ở Phổ Ðà Sơn và Ấn Ðộ có thể thực hiện được mà quên không nghĩ tới những con vật sẽ bị dùng làm thí nghiệm trong việc tìm kiếm thuốc đó cũng là 'Ác pháp' phải không ạ? Mấy hôm nay con ngồi suy nghĩ tới vấn đề đó mà rùng mình, thấy mình ích kỷ quá, chỉ lo cái thân mình mà quên rằng sẽ có bao nhiêu con vật sẽ bị hy sinh cho sự sống của con người. Nếu mình thành tâm cầu nguyện cho những con vật đó được vãng sinh thì có được không ạ? Bạch Sư phụ, Sư phụ hoan hỷ chỉ dạy cho con trong trường hợp nàyngười Phật tử phải xử sự, suy nghĩ ra sao ạ? Có vấn đề cộng nghiệp với những chuyên viên phòng thí nghiệm không ạ? Trả Lời: Là người Phật tử thì phải căn cứ theo tiêu chuẩn nào để mà phán định về thiện và ác? Chính là Giới Luật. Có thọ Giới mới trở thành Phật tử. Mà thọ Giới thời lại có hai phương diện: Một là tâm nguyện, hai là thực hành. Nghĩa là khi thọ Giới, người Phật tử phải phát nguyện "lìa bỏ tất cả các điều ác, nguyện làm tất cả các điều lành, thanh tịnh tâm mình khỏi tất cả các phiền não, và (nếu là Bồ tát thì còn phải) thệ độ tất cả các chúng sinh." Trên mặt tâm nguyện này bắt buộc người Phật tử phải phát tâm cho hoàn toàn viên mãn, không lưỡng lự, không do dự, dứt khoát, chân thật, dũng mãnh, thiết tha... Bởi nhờ do thế mà tâm nguyện phát ra lúc ấy làm cho toàn khối "tâm" của người Phật tử trở nên hoàn toàn thanh tịnh viên mãn, cứu cánh "đến bờ kia". Nhờ vậy ngay khi sát na phát nguyện ấy vừa chấm dứt, người Phật tử thành tựu được "Giới Thể", tức Thiện căn hay Ðạo căn đúng nghĩa, tức hạt mầm của Ðạo quả và Niết Bàn sau này vậy. Song đó chỉ mới là tâm nguyện, mới là hạt giống Ðạo dược gieo vào đất tâm mà thôi. Ðến phương diện thực hành, không ai có thể một lúc mà làm được tất cả các điều thiện, tránh được tất cả các điều ác. Vì thế trên mặt thực hành đức Phật chỉ đưa ra một ít "giới" để mà hành trì. Không những thế Ngài còn phân ra cấp bậc từ 5 Giới, 8 Giới, 10 Giới, 58 Bồ Tát Giới, hay 250 Tỳ Khưu Giới. Cốt yếu là để cho chúng ta dễ hành trì. Ðiều này chứng tỏ là trên phương diện thực hành không ai có thể làm thiện được hết trăm phần trăm. Vậy thì tại sao lại cứ băn khoăn bối rối khi thấy mình còn có điều ác này hay điều ác kia? Vấn đề mình còn có điều ác này điếu ác kia có hai nghĩa: (1) Một là do mình buông lung, tà kiến, không tin nhân quả mà làm ác. (2) Hai là mình có tâm nguyện thiết tha không làm ác, song sức mình chưa đủ nên chỉ thực hành phần ít nào thôi để từ từ mà vươn lên đến chỗ viên mãn. Trường hợp (1) mới đúng là ác. Còn trường hợp (2) không phải là ác, mà là đang tôi luyện, tập luyện, chưa phải là giai đoạn hoàn hảo thì làm sao mà không còn ác được. Tuy còn có ác song không phải là ác, vì mình còn đang tập luyện vậy. Ðiều quan trọng nhất trong giai đoạn này là người Phật tử luôn luôn phải giữ vững tâm nguyện thọ và hành trì Giới viên mãn của mình và không phạm các Giới mình đang thực hành. Thì như thế mình chính là người thiện và tốt rồi, không có lý do gì để phê bình người Phật tử ấy là xấu hay ác được. Thế nên đã là Phật tử thì cứ căn cứ theo Giới Luật mà mình đã thọ để phán đoán mình là thiện hay ác. Cứ phạm Giới và nhất là thối thất tâm nguyện thọ Giới thì đó là ác... Ðạo Phật nhìn nghĩa thiện ác ra sao? Trong Ðạo Phật ý nghĩa của thiện ác được nhìn theo hai cách: (I) Nhìn theo lý Nhân Quả ba đời và sự đạt được các lợi lạc hay bị thất lợi. Theo Ðạo Phật một hành động nào đó mà đem lại một kết quả lợi lạc cho chính người làm thì hành động ấy được coi là thiện. Ngược lại một hành động mang lại hậu quả đau khổ thiệt thòi cho chính người làm, thì hành động ấy bị coi là ác. Song đừng quên rằng kết quả lợi lạc hay hậu quả tai hại đều phải là ở đời sau. Bởi có nhiều kẻ làm ác mà vẫn không thấy có kết quả đau khổ nào đến với hắn trong suốt đời sống hiện tại này. Nhiều kẻ làm ác để được thụ hưởng và rồi nhờ quyền thế hay may mắn nào đó mà cứ thế được hưởng suốt đời. Nếu không có quả báo của đời sau, thì kẻ kia làm ác mà được hưởng lợi lạc, vậy thì hành động ác kia đâu còn là ác nữa?! Bởi làm ác mới bị khổ đau, làm thiện mới được lợi lạc, nay kẻ kia làm điều "ác" ấy mà được lợi lạc, thì chứng tỏ điều "ác" ấy chính là thiện???!!!! Theo Ðạo Phật thì không phải vậy, kẻ làm ác ấy có thể tránh được quả ác trong đời hiện tại này, song trong các đời sau thì hắn phải chịu trả quả, chắc chắn không sao tránh khỏi. Ðạo Phật từ chối không chấp nhận sự sung sướng hiện tại trong đời này là kết quả của việc ác mà hắn làm, mà cho rằng đó chỉ là quả báo thiện của hành động thiện mà hắn đã làm trong đời trước (nhờ hành động thiện trong đời trước nên đời nay hắn mới có kết quả là có nhiều quyền hành hay may mắn để che chở cho hắn không bị quả khổ ngay trong hiện đời). Còn quả báo thật sự của việc làm ác trong đời hiện tại này sẽ là một sự khổ đau không cùng trong các đời sau. Với Ðạo Phật nếu nhân quả ba đời (quá khứ, hiện tại và tương lai) mà không có, thì người ta không còn biết đâu là thiện hay ác nữa, và nếu không có lẽ nhân quả một cách tổng quát thì ý nghĩa của thiện ác sẽ không còn nữa. Nghĩ mà xem, nếu một kẻ giết người cướp của rồi sống vĩnh viễn hạnh phúc, không thấy quả báo giết người cướp của đâu hết, thì ác như thế có hại gì đâu? Mà đã không có hại mà còn có lợi nữa thì sao chúng ta lại không làm? Trong trường hợp như vậy, chúng ta không thể tìm đâu ra một lý lẽ nào đó để bảo chuyện giết người cướp của kia là ác được!!! Và nếu không có nguyên lý nhân quả ba đời, thì kẻ nào mạnh kẻ đó sướng, kẻ nào yếu kẻ đó khổ. Và như vậy quyền hành thế lực và áp bức dành dựt hiếp đáp, tóm lại là làm hại người khác để hưởng lợi cho mình, sẽ là nguyên nhân của hạnh phúc vậy!!! Song Ðạo Phật nhìn thấy rõ tất cả mọi hành động làm hại người khác để được lợi cho mình, dù được hưởng lợi trong đời này, song đều mang lấy các quả báo đau khổ (nhưng phải nhớ là) trong các "đời sau". Thế nên các hành động ấy bị coi là "ác". Ngược lại các hành động xả kỷ vì người, gây lợi ích cho người khác, dù trong đời hiện tại có vì thế mà mình khổ sở, song chắc chắn trong các đời sau mình sẽ được tất cả các quả báo an lạc hạnh phúc.Thế nên các hành động này được coi la "thiện". Tóm lại: (1) Ðiều trước tiên chúng ta cần phải biết là : Ðạo Phật không nói thiện ác theo lý thuyết, mà dựa trên "hành động" của hữu tình đối đãi qua lại với nhau để phân định thiện ác. Tức thiện ác là dựa trên hành động mà phán xét (hành động được gọi là "Nghiệp".) (2) Kế đến, Ðạo Phật dựa trên hành động làm lợi ích hay gây thiệt hại cho người khác làm tiêu chuẩn để đánh giá thiện ác. (3) Sau cùng, Ðạo Phật dựa trên chân lý Nhân Quả trong ba đời, tức kết quả lợi lạc hay khổ đau cho chính cá nhân người hành động, để làm cơ sở lý luận chứng minh cho những gì mà hai điều (1) và (2) ở trên đưa ra. (II) Nhìn thiện ác theo cách thứ hai là: Tất cả mọi nhân quả, dù thiện hay ác, khổ đau hay hạnh phúc, đều chỉ là tạm bợ không thật. Cũng chỉ do vỉ gieo nhân nên phải gặt quả. Mà cứ có nhân có quả thì thiện hay ác gì cũng phải chịu khổ đau nói chung là "sinh lão bệnh tử", chịu hoại diệt mất mát, tan rã khổ đau v.v... Do đó "cái gì" làm cho hữu tình rơi vào trong vòng nhân quả cái đó chính là "ác". "Cái gì" làm cho chúng sinh thoát ra khỏi được vònh nhân quả cái đó mới chính là "thiện". Và Ðạo Phật trả lời, "vô minh" đưa chúng sinh vào vòng nhân quả luân hồi đau khổ và "giác ngộ" đưa chúng sinh thoát ra khỏi vòng nhân quả luân hồi khổ đau. Như vậy vô minh là ác và chỉ duy nhất có Giác ngộ mới là thiện. Theo cách nhìn này, thế gian không hề có thiện mà toàn thể thế gian chỉ là vô vàn bộ mặt của "ác" được biểu lộ ra một cách vẹn toàn. Muốn biết ác ở đâu, muốn hiểu ác là gì, thì cứ nhìn vào thế gian này với tất cả mọi cõi của nó, từ địa ngục lên đến các cõi trời người v.v... Chỉ có hành động theo Ðạo mới được coi là "thiện", chỉ có Niết bàn giải thoát khỏi mọi khổ đau luân hồi thế gian kia mới chân chính là thiện, duy nhất là thiện mà thôi. Nhìn thiện ác theo cách (I) là nhìn theo Thế Tục Ðế, nhìn theo tương đối. Nhìn theo cách (II) là nhìn theo Chân Ðế, nhìn theo tuyệt đối. Nếu chúng ta đã là Phật tử rồi, đã theo Phật tu hành, thì sao lại không biết rõ thế nào là thiện ác, thế nào là Chân Tục hai đế, để rồi nhìn thấy vài khía cạnh nho nhỏ về thiện ác của Tục Ðế mà đã hoang mang nghi ngờ không biết phải đối sử ra sao nữa!!! Chúng ta không hề hay rằng theo Ðạo Phật chính là theo con đường toàn thiện và tối thiện rồi đó hay sao? Chúng ta không biết gì hết về cái ác của thế gian này hay sao? Vá mọi điều thiện của thế gian đều chỉ là tương đối thôi hay sao? Hãy tư duy cho ky về vấn đề thiện ác theo Chân Tục hai đế này đi, trước khi nghe tiêp vấn đề (còn tiếp) Ðạo Phật đã đóng góp gì để xây dựng Thiện Pháp? Vấn đề trước tiên hết đối với Ðạo Phật đó là làm sao để cá nhân một hữu tình, như một con người chẳng hạn, được "là" thiện, trước khi mà người ấy muốn "làm" thiện. Một người xấu vẫn có thể làm thiện, như khi một người bỏn xẻn mà chịu bố thí vậy, hay khi một tên sát nhân tha chết cho một nạn nhân v.v...Ðạo Phật sẽ không chút hài lòng khi một người làm thiện mà vẫn là người ác và xấu như thường, như một người bố thí với tâm đầy kiêu ngạo và tà kiến, một người tu hành chỉ để xây dựng cho danh vọng và địa vị của mình v.v... Ðạo Phật muốn rằng trước khi người ấy làm điều tốt thì người ấy phải "là" tốt, phải "trở thành" tốt trước đã. Tại sao vậy? (1) Thứ nhất, "làm" thiện sẽ không thay đổi gì nhân quả của mình được khi chính mình "là" ác. "Là" là chỉ cho thực chất của mình, bản thể, tự tính của mình. Trong khi "làm" chỉ là một hành vi biểu lộ ra bên ngoài cho mọi người thấy biết. Khi mình thấy một người "làm" thiện, như bố thí chẳng hạn, mình không thể vì vậy mà nói chắc được người ấy "là" thiện hay "là" ác hay "là" không thiện không ác? Nếu mình thuê một người đi bố thí, người ấy "làm" việc bố thí theo tư cách của người làm công, nên dù có "làm" công việc bố thí ấy, song người ấy chẳng phải là thiện cũng chẳng phải là ác. Còn nếu mình thấy bố thí sẽ đem lại cho mình nhiều lợi lộc vật chất như danh vọng, thắng cử tổng thống, hay bố thí ấy sẽ đem lại một mối lợi làm ăn buôn bán nào đó cho mình v.v.., thì đó là "lợi dụng" chuyện bố thí để mưu đồ tư lợi, thì tuy rõ ràng mình hăng hái tích cực "làm" việc thiện bố thí , song thực ra mình "là" ác! Khi mình đã "là" ác như thế, thì có "làm" bao nhiêu lần thiện bố thí đi nữa, trong đời sau mình vẫn phải chịu quả báo ác khổ đau như thường. Bản chất mình "là" ác thì phải chịu quả báo ác, không thể dùng việc "làm" thiện mà che đậy hay trốn tránh được luật nhân quả.Như vậy, một khi mình dã "là" ác rồi, thì "làm" thiện sẽ không có kết quả lợi ích gì, sẽ trở thành vô ích, trái lại lại còn làm tăng thêm tội lỗi của mình ở chỗ lừa dối, bịp bợm, đạo đức giả nữa. Thế nên Ðạo Phật muốn cho mình trở thành thiện và "là" thiện trước đã, rồi mới "làm" thiện sau là vậy. (2) Thứ hai, mình có thể nói : Ðã đành lạm dụng điều thiện như trên là ác rồi, song nếu người ác mà chịu làm thiện mà không phải vì nhằm lợi dụng việc thiện, mà vì các lý do khác như nghe lời khuyên của bạn tốt, thấy tội nghiệp thật, hay cũng có tin phước đức, muốn làm phước để dành cho mình đời sau, hay để lại cho con cái v.v.. thì đó cũng là điều tốt vậy. Người ác mà mình khuyến khích được người ta làm thiện thì còn gì bằng nữa, không hơn là để cho người ta ác luôn hay sao. Tuy "là" ác nhưng có "làm" thiện vẫn hơn là "là" ác mà cũng không "làm" thiện luôn. Ðúng vậy, Ðạo Phật đâu phản đối chuyện này. Song chúng ta phải thấy là trường hợp "ác làm thiện" ở đây khác hẳn trường hợp "ác làm thiện theo lối lợi dụng thiện" ở trên. Người ác ở đây khi làm thiện không hề có tâm lợi dụng mà là tâm thiệnthật sự. Song tâm thiện này của họ chỉ phát ra nhất thời, thế nên nó vẫn lỏng lẻo và hời hợt, có thể dễ tan biến như sương mai! Thế nên dù học có làm thiện và chân thật "là" thiện trong lúc đó, song cái "làm" và "là" thiện đó rất mong manh và không hcắc thực, thế nên họ chỉ "là" thiện nhất thời hay tạm thời, thực chất họ vẫn là ác như thường! Vì vậy họ vẫn không sao tránh được quả báo ác trong tương lai. Sự "làm và là" thiện của họ chỉ nhất thời, nên quả báo thiện ấy của họ trong tương lai cũng chỉ nhất thời và sẽ dễ dàng tan mau! Họ vẫn không bao giờ thật sự thoát khỏi quả khổ được. Vậy thì làm thiện như thế có được lợi ích gì? Ðược hưởng chút quả báo sướng để rồi căn bản khổ vẫn là khổ. Ðôi khi còn vì được hưởng chút quả báo sướng mà đâm kiêu mạn, bất tín, đâm tham lam thêm mà tạo ác đủ thứ nữa. Thế thì làm thiện và là thiện theo lối nhất thời ấy có nguy hiểm hay không? Thế nên Ðạo Phật muốn cho mình trở thành thiện và "là" thiện trước đã, rồi mới "làm" thiện sau là vậy. Và "là" thiện ở đây không phải là nhất thời mà "là" thiện tự bản chất, vĩnh viễn thường hằng "là thiện" vậy. (3) Thứ ba, điều mà không ai nhìn thấy, kể cả các Phật tử, đó là : Tất cả các "Thiện" của thế gian đều là thiện theo lối "nhất thời" như trên, đều không phải thật sự "là" thiện, bản chất là thiện. tự tính là thiện, thế nên thế gian không sao tránh khỏi quả báo đau khổ được là vậy. Tại sao vậy? Qua các nhận xét ở trên, chúng ta thấy rõ "làm" thiện chỉ là hành động bên ngoài, còn "là" thiện hay ác là hoạt động của Tâm ở bên trong. Làm thiện không thôi chưa chắc đã có được quả báo tốt đẹp, và nếu có cũng chỉ nhất thời. Lại nữa chỉ làm thiện không thôi khi được quả báo tốt đẹp, vì quả báo ấy mà sẽ làm tăng trưởng các ác pháp. Thế nên làm thiện không thôi không bảo đảm chút nào, mà phải "là" thiện thì mới chắc chắn luôn luôn được quả báo thiện. "Là" thiện có nghĩa là có Tâm Thiện. Và như vậy: Chính tâm thiện hay ác của một người xác định người ấy là thiện hay ác, chứ không phải là hành động thiện ác bên ngoài của người ấy. Vậy thế nào là một Tâm Thiện? Một tâm ích kỷ chỉ nghĩ lợi cho mình có phải là thiện không? Dĩ nhiên là không. Nền tảng của tâm ích kỷ chính là cái Tôi. Thế gian này có ai không chấp Tôi hay không? Một tâm tham lam, sân hận hay si mê thì là thiện hay ác? Dĩ nhiên là ác.Thế gian này có ai không tham sống, không tham hưởng hay không? Ðã chấp Tôi thời phải có của Tôi, có của Tôi là phải tham đắm trong những cái của Tôi ấy. Có tham đắm ái luyến là có mong cầu khát khao mong ước, đã có khát khao mong ước là phải có sân hận, bực bội khi mong ước ấy không thành hay bị trở ngại. Mà không khát khao mong ước gì hết, không sân hận bực bội gì hết, thì lại thành si mê, ngu ngơ ngù ngờ, như loài vật, như gỗ đá, thì đó là thiện đó hay sao? Mà nếu toàn thể thế gian này đều "là" như thế thì thế gian này "là" thiện hay ác đây? Dĩ nhiên nếu Tâm đã "là" Tôi, "là" tham sân si, thì phải "là" ác thôi. Mà đã là ác thì làm sao có quả báo sướng được? Do đó thế gian này đầy việc thiện ra đó, biết bao nhiêu người "làm" thiện đó. Nhưng căn bản của thế gian vẫn "là" ác, nên vẫn phải chịu quả báo khổ đau như thường. Mà tại sao hữu tình muôn loài, từ loài trời, loài người xuống đến súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục, lại cứ có chấp ngã, cứ có tham sân si như vậy? Theo Ðạo Phật, bởi vì họ vô minh, không thấy ra Chân Lý của tất cả các pháp là gì hết! Do đó, do Ðại Từ Bi Tâm muốn cho chúng sinh muôn loài được thoát khỏi quả báo khổ đau, đức Phật đã góp phần của Ngài vào bằng cách xây dựng cho chúng sinh một Tâm Thiện viên mãn, đúng nghĩa, chân thật và vĩnh viễn thường hằng bất động chuyển. Ðức Phật muốn chúng ta vĩnh viễn "là" Thiện, "là" Thiện một cách vững chắc bất động, "là" thiện tự bản chất, từ tự tính, thuộc dòng dõi Thiện... Ngài muốn chúng ta là thiện đến mức dù không hề "làm" thiện đi nữa, cũng vẫn "là" thiện như thường. Muốn chúng ta "là" thiện như thế, tức có nghĩa là muốn chúng ta có một Tâm Thiện, tức một Tâm giác ngộ thấy ra vô ngã, một Tâm dứt trừ hết tham sân si. Vậy Ngài làm bằng cách nào đây? Ðức Phật "thành tựu" chúng sinh bằng cách nào? Thành tựu là thuật ngữ chuyên môn trong Ðạo Phật. Thành tựu có nghĩa là làm cho chúng sinh trở thành Thiện, làm cho chúng ta được "là" Thiện. 1) Bước đầu tiên để chúng ta được "là" Thiện chính là tâm tôn kính hoặc là hâm mộ của chúng ta đối với Thiện. Nhưng trước hết phải luôn ghi nhớ rằng Thiện ở đây không phải chỉ là các "sự việc" qua các hành động như bố thí, phát chẩn v.v... mà là Tâm giác ngộ, Tâm thanh tịnh thoát khỏi mọi chấp ngã tham sân si triền phược ô nhiễm. Một Tâm Thiện như thế thế gian này không hề có, và mọi sự thiện của thế gian như bố thí, đạo đức, thương người, cứu giúp người, nói năng hiền hòa, tử tế, đứng đắn đàng hoàng, trung trực ngay thẳng, không tham lam, không nóng nẩy dữ dằn, không ngu muội v.v... đều không tương xứng được với Tâm Thiện chân chính, tức là Giác Ngộ. Nghĩa là chúng ta không thể thấy một người làm các sự thiện trên mà cho rằng người đó là Giác ngộ, là Thiện chân chính và đúng nghĩa được. Phải luôn nhớ cho rằng, với Ðạo Phật, tất cả mọi cái tốt, mọi người tốt của thế gian, vẫn chỉ là tốt của thế gian, tốt mà gốc vẫn là ác, vẫn chỉ là những người "ác" làm tốt, những người vô minh tham sân si làm tốt mà thôi. Không ai, ngoại trừ các bậc Giác ngộ, thật sự "là" Tốt hết. Do đó tôn kính hoặc hâm mộ Thiện, chính là tôn kính, hâm mộ đức Phật vậy. Khi chúng ta phát tâm tôn kính và hâm mộ đức Phật là bậc tối Thiện, tâm chúng ta bắt đầu "hướng về" Thiện. Sự tôn kính và hâm mộ Bậc tối Thiện làm cho chúng ta khó mà phản đối lại, làm cho chúng ta biết nghe lời Ngài, làm cho chúng ta chịu "theo" Ngài. Song đó mới chỉ là bước đầu, vì tôn kính và hâm mộ thông thường là do chúng ta chỉ mới thấy vẻ đẹp bên ngoài của đức Phật, hay chỉ mới thấy được các điều đạo đức thanh tịnh qua các đối sử và sinh hoạt bên ngoài của Ngài mà thôi. 2) Bước kế đến, từ chỗ tôn kính hâm mộ sắc tướng và đạo đức bên ngoài ấy, chúng ta chấp nhận "đi theo" Ngài, làm đệ tử của Ngài, tức chúng ta bị vẻ bên ngoài của Ngài "nhiếp phục", nghĩa là chúng ta bị Thiện nhiếp phục qua cái đẹp và an lạc bên ngoài của Thiện. 3) Tiếp đến, ngay khi bị nhiếp phục như thế, đức Phật khiến chúng ta "phát Tâm nguyện" chính thức "quy y" về sự tối Thiện và toàn Thiện thể hiện qua Tam Bảo. Tâm nguyện quy y chân thật thành kính tha thiết và hân hoan ấy chính là mầm mống Thiện chân chính nhất, đúng nghĩa nhất. Từ sát na quy y ấy trở đi, chúng ta trở thành Thiện, chúng ta chính "là" Thiện, chứ không còn là "ác" để cứ phải loay hoay "làm" đủ thứ thiện mãi mà rốt cuộc vẫn chỉ "là" ác mà thôi !!! Ðức Phật xây dựng cho chúng ta như vậy đó. Ngài tu hành vô lượng kiếp thành tựu tất cả mọi thiện pháp, mọi Trí Huệ và Từ Bi, để trở thành là một với sự Toàn Thiện, Tối Thiện. Ðể làm gì? Ðể cho chúng ta "có" Thiện ấy một cách sống động cụ thể, mà quy y về đó. lấy đó làm nền tảng, làm gốc gác cho chính mình, để từ đó mình phát triển mà trở thành Thiện, được "là" Thiện. Chỉ tiếc là chính người Phật tử cũng không hiểu rõ ý nghĩa quy y Tam Bảo là gì hết, cho rằng đó chỉ là một hình thức nghi lễ, không có ý nghĩa gì hơn là để chấp nhận cho mình có tín ngưỡng là Ðạo Phật, được công nhận là tín đồ của Ðạo Phật. Ngoài ra chuyện quy y ấy chẳng có liên quan gì đến vấn đề thiện hay ác hết. Hình như toàn thể người Phật tử đều nghĩ như thế !!! Mình cho rằng thương người giúp người mới là thiện, chứ còn quy y Phật thì có gì đâu mà là Thiện?! Do đó mà khi nghĩ đến thiện ác, mình không bao giờ biết nghĩ đến quy y Phật, mà chỉ biết nghĩ đến con vật này bị hy sinh, con vật kia bị chết oan uổng, rồi ngồi đó mà thở than rơi lệ với nhau, và cảm thấy rằng mình thật sự "là" tốt, thật sự hết mình quan tâm đến điều tốt... Có đúng không? Nếu thấy là đúng thì mới nên nghe tiếp nữa... (con tiep) Tóm lại, chính vì người Phật tử chưa hiểu rõ thế nào là thiện ác, chưa hiểu rõ thế nào là một vị Phật, chưa hiểu rõ thế gian là gì, và chưa hiểu rõ Ðạo là gì, vì vậy nên chúng ta luôn bị "lấn cấn" về vấn đề Ðạo Phật đóng góp gì cho thế gian này, Ðạo Phật sao lại lơ là việc làm thiện như vậy? Một khi đã hiểu rõ ra rồi, chúng ta biết rõ quy y về với Phật và Tam Bảo, chuyện theo Ðạo của chúng ta, chính là để tôi luyện cho chúng ta trở nên Tối Thiện vậy. Chúng ta còn phải hiểu rõ thêm rằng muốn trở thành "là" Thiện, cũng phải theo nguyên tắc của Nhân Quả. Quy y Phật, theo Ðạo, tu tập, chỉ mới là "nhân" Thiện mà thôi, chứ chưa phải là "quả" Thiện. Thế nên trong giai đoạn "nhân" này vẫn có lỗi lầm, vẫn có thối thất, vẫn còn đầy nghi ngờ hoang mang khônghiểu v.v... Thế nên các Bồ Tát mới phát nguyện nâng đỡ và nhiếp thọ chúng ta để làm cho chúng ta được "thành tựu" Thiện căn là vậy. Song một khi đã quy y về với Phật và Tam Bảo rồi thì dù có "bê bối" tới đâu đi nữa, chỉ miễn vẫn cứ giữ vững tâm nguyện quy y, cứ tin tưởng trăm phần trăm vào Tam Bảo, là coi như chúng ta vẫn thuộc về dòng dõi Thiện, vẫn thuộc về bản chất Thiện. Còn đã đứng ngoài Tam Bảo thì dù có thiện tới đâu cũng đều thuộc về họ hàng của 4 Ma, cũng đều thuộc về tính chất Ác hết ! Ðiều này rất quan trọng, người Phật tử không nên bao giờ quên. Trở lại với vấn đề của thế gian. Thế gian căn bổn là vô minh chấp ngã và tham sân si, thế nên sự hiện hữu, nói khác là sự sống của thế gian luôn luôn phải có ác thì mới sống được. Loài người muốn sống còn, đã lấn đất và ngang nhiên chiếm hữu "lãnh thổ" của các loài vật, và còn luôn luôn hăm he muốn xâm chiếm chém giết lẫn nhau nữa kìa. Ðể sống còn và hưởng thụ, loài người đàn áp loài vật rất là dã man, ăn thịt loài vật, phá rừng rú làm nhà cửa cho mình ở, khống chế loài vật, biến chúng không phải chỉ là thức ăn cho mình, mà còn thành các thú vui tiêu khiển cho mình, như làm xiếc, như nuôi "pet" ! Tự biến mình thành chủ của loài vật một cách đầy kiêu mạn và "đạo đức giả". Tại sao lại như vậy? Cũng chỉ vì để "nâng cao" mức sống của con người lên. Trong khi được "nâng cao" lên như thế, người nào cũng nghĩ rằng sự nâng cao này bằng văn minh của khoa học hiện đại quả thật là vô cùng "thiện", chứ có biết đâu rằng để nâng cao như thế loài người đã đem sinh mạng của biết bao con vật ra để làm thí nghiệm. Song đó là bản chất của "nghiệp" loài người là như vậy, vì tâm thức của loài người không những đã vô minh, tham sân si còn nặng nề, mà nghiệp thiện thuộc thế gian cũng không hoàn toàn, thế nên đã sinh vào trong loài người là phải có "ác" mà thôi, không sao tránh khỏi. Chúng ta đã cộng nghiệp với nhau ngay từ căn bổn tham sân si và chấp ngã rồi, chứ không phải phải đợi tới lúc mong muốn hết bệnh mới công nghiệp với người thí nghiệm qua loài vật. Song trong cái cộng nghiệp ác với cùng mọi người ấy, chúng ta vẫn dứt khoát không đi theo hướng nghiệp ác ấy, mà chỉ đi theo hướng nghiệp Toàn Thiện qua sự quy y và tin tưởng hoàn toàn về Tam Bảo. Chúng ta vẫn còn ở chung với thế gian trong khu rừng rậm mịt mù đầy hiểm độc của vô minh và ác kiến, song tâm hướng của chúng ta vẫn là làm sao đi ra khỏi khu rừng ấy, chứ không bám víu chết sống trong khu rừng ấy, thế nên có cộng nghiệp mà vẫn không cùng hướng đi. Ðó là ý nghĩa của tình trạng người Phật tử sống giữa thế gian này vậy. Nghĩ kỹ lại hết, chúng ta hiểu ra được ý nghĩa của thế gian và ý nghĩa của Ðạo. Chúng ta cảm nhận ra được một vị Phật thật sự là gì, tôn quý biết dường nào và bao la không cùng đến dường nào. Và cuối cùng, chúng ta thấy rõ lập trường và hướng đi của chúng ta, những người con Phật, là đúng hoàn toàn và chí lý vô cùng, là chân thật toàn thiện và tối thiện vậy... Thế nên hãy đi cho đến cùng, theo Phật cho đến cùng...
tu hành đắc lực bị nghiệp khảo
Hỏi: Nghiệp chướng cứ hiện ra ho� i, xin hỏi đây có phải l� vì niệm Phật có công phu không?
Ðáp: Không nhất định [như vậy], phần nhiều khi nghiệp chướng hiện ra đều l� m chướng ngại cho sự dụng công. Khi công phu đắc lực rồi, nghiệp chướng có thể hiện ra để khảo nghiệm bạn. Ai đến khảo nghiệm? Những oan gia chủ nợ đời quá khứ; công phu của bạn đắc lực gần đến Cực Lạc thế giới, họ lo sợ nên đến phá rối, mong cản trở được bạn. Phần nhiều khi công phu tu h� nh đắc lực thì thường phát sanh hiện tượng n� y. Khi gặp những chuyện n� y, chúng ta phải thương lượng với oan gia chủ nợ, hy vọng họ đừng gây chướng ngại, khi chúng ta tu h� nh có kết quả vãng sanh Cực Lạc thế giới sẽ trở lại độ họ, thường thường họ đều đồng ý tiếp nhận. Bạn vãng sanh về Cực Lạc thế giới sẽ có năng lực để phổ độ chúng sanh.
nghe pháp như thế nào?
Câu hỏi:
Trong lúc làm việc nhà thì có lúc con vừa làm vừa niệm Phât. củng có lúc vừa làm vừa mở băng sư phụ giản lên để nghe. Nhưng con cảm thấy nghe như vậy thì đôi lúc không thật sự chú tâm vào lời giảng, mà chỉ để nghe như bacground vậy thội. Cái đó có nên không sư phụ? Mình làm như vậy có mắc tội bất kính đối với Pháp không? Niệm Phật thì dể rội, tùy tâm mình co chay, nhung danh hieu Phat 'nhap tam' tuong doi de hon. Còn Pháp thì phải lắng nghe mới mong hiểu, mà nếu để tâm lơ ta thì hóa ra như mình nghe nhạc thường ngày thôi sao? Hay là con phải ngồi đàng hoàng trước bàn thờ rồi mới nên nghe Pháp? Xin Sư Phụ giàng dạy cho con nha
Trả lời:
Vấn đề nghe Pháp kính hay bất kính là tùy thuộc vào Pháp và tùy nơi ý hướng của người nghe. Trước hết nói Pháp là thế nào? Không phải cứ vị Thầy nói thì có nghỉa là Pháp. Có nhiều khi Thầy nói, đầy chuyện đạo đức ăn hiền ở lành, hay nhiều khi Thầy tâm sư kể chuyện đi tu của thầy, nhiều khi nói ý kiến riêng tư của thậy... Tất cã mọi trường hợp này đều không phải là phạp. Nói pháp tức phải là giảng về Kịnh, Luật hay Luận nào đó của Phật hay các Bồ Tát hay của chư Tổ Sư. Đúng như thế mới là nói pháp. Và chỉ khi nào chúng ta nghe về Kinh Luật Luận mới có nghỉa là chúng ta nghe Pháp. Do đó một vị Thầy phá giới mà nói về Kinh Luật Luận thì chúng ta cũng vẩn lắng nghe cung kính, mà một vị Thầy giử giới mà nói chuyện đạo đức ngòai đời thì tùy mình muốn nghe hay không nghe đều chẳng sạo. Như vậy, chúng ta biết rỏ thế nào là Pháp rồi, thì dỉ nhiên khi nghe Pháp là phải cung kính lắng nghe với tất cả "tâm hồn". Sống vì hoàn cảnh của mổi người, nên chúng ta có nghe " phương tiện" xử dụng sự nghe Pháp ấy theo hoàn cảnh của mình, miển mục tiêu là đưa mình vào Đao, đưa mình đi sâu vào đạo, hoặc gieo duyên với đạo v.v...
Tom lai la "phuong tien lam loi ich" cho chinh minh hay cho nguoi, thi minh deu co the lam duoc. Thi du nhu minh muon luon luon co tieng noi Phap trong nha du la luc minh lam viec, ca hat, giai tri v.v... de lam chi vay? De lam cho minh duoc luon nhac nho, de dem chinh Phap vao trong doi song tap nham cua minh, de gieo duyen cho nguoi than v.v... Song trong cac truong hop nay, neu lam nhieu roi ma khong dua lai loi ich gi het thi minh nen ngung lai va tim cach khac. Dong thoi, day chi la phuong tien nhac nho gieo duyen va khich le, chu con muon hieu ro va tham nhap thi bat buoc phai cung kinh chu tam nghe ky. Sau cung la truong hop nghe mot vi Thay ma minh nhan la Su Phu, thi tuy theo giua minh va Sp minh cho phep nghe lam sao do thi minh se duoc nghe nhu vay. The nen Sp cho phep tui con tuy kha nang cua minh ma nghe bang giang cua Sp cach nao cung duoc mien cam thay loi ich va tinh tien la duoc roi. Song tot nhat la khi nghe SP giang ve Kinh, Luat hay Luan, thi truoc khi nghe bao gio cung nen chap tay quan tuong quy y ve Tam Bao, phat Bo De Tam loi ich cho tat ca chung sinh, roi khan nguyen xin Tam Bao cho phep minh duoc phuong tien nghe Phap nhu vay va gia ho cho minh tham nhap Phat Phap loi lac chung sinh... Sau do la cu thoai mai ma nghe theo cach cua rieng minh...
hỏi đáp Phật học
Câu hỏi:
".... cái hôm làm lễ Quy y Ngài Quan Âm đó. Ngoài tiếp tục lạy ra con đã Phát nguyện cầu xin Ngài Quan Âm cho con học hiểu được Pháp Từ Bi của Ngài ... nên con đã Phát nguyện sẽ trì một triệu lần chu' Ðai Bi va` mỗi ngày một ngàn lần danh hiệu Ngài. Như vậy có phải là nguyện nhiều "quá' " không?
" Và con còn cảm thấy điều này nửa, đó là thật ra Từ Bi là gì con vẫn chưa phân rỏ được với tình cảm tuy là đã nghe nhiều mà vẫn ngu như thường. Co' phải Từ Bi hoàn toàn không phải là một cảm giác gì hết vì phát sinh từ Trí Huệ ? Nếu vậy thì mình không thể dựa vào một cảm giác nào phát sinh từ cảnh tượng nào của thế gian mà cho đó là Từ Bi rồi ! Phải hông Sư Phụ hay ... mình vẫn phải duyên vào đo' ... nhưng nếu duyên vào đo' thì mình làm sao có thể phân biệt ra nó với tình cảm ?"
Trả lời:
Phát nguyện như vậy cũng là do từ tình cảm "phiền não" mà ra.
Tại sao vậy?
Bởi vì con thấy rằng "Tôi quá thiếu từ bi, Tôi không biết gì về từ bi, Tôi muốn hiểu được từ bi, Tôi muốn có được từ bi. Tôi muốn Từ Bi là 'của Tôi', Tôi muốn Tôi phải là Từ Bi mới được, Tôi 'không bằng lòng' rằng Tôi không có từ bi..." cho nên con mới Phát nguyện mạnh và nhiều như vậy ! Tôi là gốc gác của phiền não. Tôi đòi hỏi, Tôi thấy thiếu, Tôi muốn làm cái này cái kia. Tôi "quậy" đủ thứ, Tôi "làm" tứ tung, làm cho Tâm xao động não phiền không an được. Thế nên Phát nguyện như thế vẫn chỉ là "tinh cảm" từ cái Tôi mà ra !!!
Vậy là không Phát nguyện hay sao? Không tu tập gì hết hay sao?
Khi con hỏi như thế, là một lần nửa phiền não từ cái Tôi lại khởi đầy đủ mọi thắc mắc, nghi ngờ phân vân không hiểu... làm phiền dòng tâm thức, não loạn tâm tình, khiến cho Trí Huệ và Thật Tướng không sao hiển hiện ra được.
Vậy phải làm sao đây?
Dĩ nhiên không làm không nguyện gì hết thì cũng có hay ho gì hơn, mà còn tệ hại hơn nhiều nửa. Thế nên trong khi phiền não tình cảm còn có đó, thì vẫn cứ phải Phát nguyện và tu tập như thường. Song cần thiết là phải "ý thức" cho rõ là mình đang Phát nguyện bằng phiền não và sẽ tu bằng phiền não đó. Vậy thì sự Phát nguyện và tu hành của mình sẽ không tránh khỏi phiền não !!!
Vậy phải Phát nguyện như thế nào và tu như thế nào thi sẽ đối trị được phiền não tình cảm đây?
Nếu con không trả lời được câu hỏi này, thì rõ ràng là con cần phải có "Thầy" rồi. Cần có Thiện trí thức để chỉ điểm cho mình. Vậy thì tại sao lại cứ tự đi Phát nguyện và tu hành mà không tìm hỏi Thiện trí thức trước? Tu "chơi" thì mới tự ý thích mà Phát nguyện tự tu lấy. Còn đã tu "thật" thì nhất thiết mọi điều đều nên nghe theo lời của Thiện trí thức...
Chẳng qua cũng do "tình cảm phiền não" xui biểu mà mình mới Phát tâm tu hành tứ tung như vậy, rồi tưởng đâu là mình làm rất đúng với Pháp... Lầm to rồi cô nhỏ...
Tu hành đúng như Pháp bắt buộc phải có Thiện trí thức chỉ bảo, nếu không có Thiện trí thức, thì đừng Phát nguyện tu gì hết, ngoại trừ lễ Phật, cúng dường ca ngợi Phật và niệm Phật cầu sinh cõi Phật gặp Phật rồi mới tu sau mà thôi...
Còn Từ Bi thì đúng vậy, Từ Bi hoàn toàn phát sinh từ Trí Huệ, chứ không hề phát sinh từ tình cảm Tôi và của Tôi. Từ Bi là một đức tính "toàn thiện", bởi Từ Bi hoàn toàn "vị tha". Mà muốn toàn thiện, hoàn toàn "vị tha" như thế, thì phải không thiên vị và hoàn toàn bình đẳng đối với tất cả muôn loài. Mà còn thấy có Tôi và của Tôi thì làm sao mà không thiên vị và bình đẳng cho được? Mà muốn đừng thấy có Tôi và của Tôi nửa thì chỉ có Trí Huệ mới thấy được như vậy.
Thế nên, Trí Huệ là nền tảng, là căn bản của Từ Bi vậy. Không có Trí Huệ sẽ không có Từ Bi. Vì vậy khi một người Phát nguyện chân thành và đúng như Pháp, muốn tu tập Từ Bi với Ngài Quan Âm, thì Ngài sẽ ứng thân thành Thiện trí thức đễ dạy người ấy về Trí Huệ trước đã, sau đó mới tu tập và thực hành Từ Bi sau. Nếu không vậy, đễ người đó tu và hành Từ Bi trên căn bản tình cảm phiền não, người ấy sẽ đọa lạc vào "ái kiến đại bi", và dính chặt trong vòng lưới của ái dục mà thôi...
Tóm lại, cứ tiếp tục Phát nguyện và tu tập đi. Song Phát nguyện và tu tập vừa phải thôi, cần từ từ và làm sao đễ xây dựng được nền tảng tu Ðạo vững chắc. Không cần nhiều và gấp. Con nên Phát nguyện lại như sau: Một ngày trì 10 biến chú Ðại Bi và niệm từ 5 đến 10 chuổi danh hiệu của Ngài. Con quên là từ từ con sẽ đãnh lễ quán tưởng "chết bỏ" chứ không phải rảnh rang gì đâu
Lễ Phật sám hối rất cần thiết. Nghiệp chướng rất nhiều mà không sám hối đúng cách thì tình cảm phiền não cứ ra ào ào mà lôi cuốn mình đi mất hút vào biển phiền não thôi... Những gì mà con phải học đễ đãnh lễ sám hối tới đây phức tạp và thâm sâu lắm, phải đễ dành thời gian đễ thực hành Pháp sám hối ấy mới được... Còn về ý nghĩa của Ðại Bi thì Sp sẽ nói tiếp sau...
Từ Bi được định nghĩa là cứu khổ và ban vui.
Khổ vốn là đối tượng của tâm xót thương, nên nếu ai thấy khổ mà không xót thương thì đó là kẻ lãnh đạm thờ ơ, kẻ không có "từ bi". Và một kẻ không có tâm xót thương cứu khổ, thì dễ trở thành ác độc, hung dữ, hoặc ích kỷ thủ phận...
Song vấn đề của Ðạo chính yếu là "giải thoát" khỏi đau khổ. Nếu mình xót thương một kẻ khổ rồi ra tay cứu giúp mà kết quả cả hai đều xuống địa ngục chịu khổ vĩnh viễn, thì sự xót thương và cứu giúp của mình sẽ không có gì đáng ca ngợi và đáng phải làm theo nữa, trái lại còn phải tránh xa điều ấy. Thế nên không phải cứ xót thương cứu giúp người là Ðạo Phật coi đó là Từ Bi, mà phải xót thương cứu giúp làm sao để đưa cả hai người đều đạt đến cứu cánh giải thoát, thì Ðạo Phật mới chấp nhận đó là Từ Bi.
Ðạo Phật thấy rằng một cái Từ Bi như thế đòi hỏi "người từ bi" phải thấy cho thật chính xác và rõ ràng thế nào là khổ và thế nào là sướng. Và khi đức Phật đi tìm con đường thoát khổ, thì Ngài thấy ra khổ sướng chỉ là tương đối với nhau, cả hai chỉ do nhân duyên nhất thời hiện ra, không hề thật có vĩnh viễn. Như vậy Ngài khám phá ra rằng cái Khổ thật sự chính là không thấy ra được chân lý tất cả khổ sướng chỉ là nhân duyên, vô thường không thật có. Vì do không thấy ra được chân lý ấy nên mới cứ chạy đông chạy tây tìm cầu khao khát cái sướng, khuấy động tạo đủ thứ nghiệp để được sướng, mà không hề hay rằng chính do vì vậy, vì tạo nghiệp tứ tung để tìm sướng ấy mà thành ra nhân khổ, chiêu cảm đủ các quả khổ không cùng !!! Từ đó đức Phật thấy ra tất cả chúng sinh đều là Khổ, vì không ai thấy ra, không ai "tỉnh ngộ" ra được cái chân lý "tất cả chỉ do nhân duyên, vô thường như huyễn hóa, không thật, không hề có thật!"
Từ chỗ giác ngộ ra chân lý ấy, đức Phật thấy ra thật rõ ràng và dứt khoát Khổ là gì?
Khổ là vô minh không thấy ra chân lý tất cả vô thường không thật mà cứ đi bám vào đó tạo nghiệp tìm cầu kết quả này kết quả nọ tứ tung.
Và sướng là gì?
Sướng là giác ngộ thấy ra chân lý kia và nhờ đó chấm dứt cái vô minh ấy, là chấm dứt toàn khối đau khổ.
Khi thấy ra hoàn toàn ý nghĩa chân thật nhất của Khổ và Sướng rồi, thì đức Phật thấy xót thương tất cả chúng sinh, vì tất cả chúng sinh đều bị Khổ vô minh mù lòa nên cứ lầm lũi đi toàn vào chốn khổ đau mà không biết đâu là lối ra hết. Xót thương chúng sinh ở chỗ Khổ ấy mà đức Phật quyết định ra tay cứu thoát chúng sinh bằng cách thuyết pháp khai mở phá tan vô minh mù lòa cho chúng sinh vậy, đưa lại một sự thoát Khổ vĩnh viễn cho họ. Một sự xót thương và cứu độ như thế được Ðạo Phật gọi là Từ Bi.
Như thế theo Ðạo Phật, ý nghĩa của Từ Bi đi cùng với ý nghĩa của Khổ và Sướng. Từ Bi là phải cứu khổ cho người và ban Sướng cho người thì mới là Từ Bi. Còn thương người cứu người mà rồi cả hai đều không thoát khổ, thì thương ấy không phải là Từ Bi. Mà một khi nếu mình chưa biết rõ thế nào là Khổ, thế nào là Sướng, thì làm sao mình cứu người ta thoát Khổ được đây? Làm sao cho người ta Sướng được đây?
Thế nên ai muốn học và hành Từ Bi của Ðạo Phật, người ấy phải học về Sướng và Khổ trước cái đã. Học và hành sao cho thấy ra được chân lý Sướng Khổ ấy rồi hãy nói đến chuyện Từ Bi.
Ðể cho dễ nhận xét về Từ Bi và tình cảm, trước tiên chúng ta cần nhận định về tình cảm và Thiện Pháp như sau: Người đời thường khi nói đến Tốt là nghĩ ngay đến tình cảm. Với người đời tình cảm là Tốt và Tốt là tình cảm. Theo họ "thương" người là Tốt, mà "thương" ấy chính là tình cảm vậy, thế nên tình cảm với Tốt là một.
Nhưng để hiểu được Từ Bi, chúng ta cần nên phân Tốt và tình cảm ra làm hai lãnh vực khác hẳn nhau. Tốt được gọi là Thiện trong Ðạo Phật. Và theo Ðạo Phật, thời tình cảm thuộc về lãnh vực của phiền não, vô minh chấp ngã; trong khi Thiện thuộc về lãnh vực của chính Pháp.
Hãy nhận xét 2 trường hợp như sau:
(1) Một người thấy người ăn xin liền bố thí cho, trong khi bố thí người ấy chẳng có chút tình cảm hay tội nghiệp gì người ăn xin kia cả. Chẳng qua là xưa nay trong tâm người ấy vẫn "chấp nhận" điều Thiện là điều nên làm, thế nên dù kẻ ăn xin kia không gợi chút tình cảm nào trong tâm người ấy hết, song người ấy vẫn bố thí như thường.
(2) Một người nữa xưa nay chẳng chủ trương gì chuyện bố thí hết, rất lơ là và không "ý kiến" gì hết với việc Thiện, song khi thấy kẻ ăn xin kia rách rưới nghèo khổ rất đáng tội, trong tâm chịu không nổi cảnh thương tâm ấy nên ra tay bố thí cho.
Trong 2 trường hợp này, trường hợp (1) là bố thí do Thiện Pháp, trường hợp (2) là bố thí do tình cảm. Chúng ta thấy rõ rằng người bố thí do Thiện Pháp thì dù có hay không có yếu tố tình cảm, người ấy vẫn làm điều Thiện như thường. Trong khi người bố thí do tình cảm thời bắt buộc phải có yếu tố tình cảm này, thì họ mới làm việc bố thí được. Thiếu tình cảm họ sẽ không làm nữa. Thế nên người Phật tử không nên cho tình cảm với Thiện Pháp là một vậy.
Nhận xét thêm nữa, chúng ta sẽ thấy: Người có Thiện Pháp thì đương nhiên cũng có luôn tình cảm. Song người có tình cảm thì chưa chắc chút nào là cũng có luôn Thiện Pháp. Xét kỹ hơn nữa chúng ta sẽ thấy tất cả mọi hành động ác trên thế gian này đều bắt buộc phải có yếu tố tình cảm là nguyên nhân thôi thúc. Khi chúng ta bị dằng co giữa hai bên Thiện và Ác, thì thông thường bên Ác hay mạnh hơn là tại sao vậy? Vì bên Ác luôn luôn có tình cảm hậu thuẫn. Một người vì tình cảm mà muốn giết kẻ tình địch của mình, một bà hoàng hậu vì thương con mà muốn giết các hoàng tử khác để đưa con mình lên làm vua v.v.. Tất cả các trường hợp ấy, tình cảm là năng lực kéo mình vào tội ác, trong khi Thiện Pháp sẽ phản đối lại các Ác pháp đầy tình cảm ấy. Thiện Pháp như thế chính là cái mà người đời thường gọi là "lương tâm" luôn luôn chống trả lại với năng lực của tình cảm cứ cuồn cuộn cuốn ào theo vào dòng Ác. Vậy thời rõ ràng Thiện Pháp với tình cảm không thể nào là một được.
Do đó người Phật tử không nên bao giờ bị lầm lẫn rằng phải có tình cảm thì mới là Tốt, và không có tình cảm thì có nghĩa là Ác. Mà người Phật tử thấy rõ ra rằng tình cảm không hề phải là nền tảng của các việc làm tốt, mà chính tâm "chấp nhận" Thiện Pháp mới là nền móng của các việc làm tốt.
Tiếp đến, chúng ta nhận xét tiếp 2 trường hợp nữa như sau:
(1) Một người "chấp nhận" điều Thiện là hay, thế nên bố thí không cần phải có tình cảm thúc đẩy. Song khi bố thí thấy kẻ nghèo khổ hơn thì cho nhiều hơn, hoặc thấy kẻ không mấy nghèo nàn thì cũng không chịu cho, hoặc cho rồi thấy mình bị lừa thì không muốn làm thiện nữa... Và chỉ gặp ngưòi xin đến xin mình thì mới cho, chứ không việc gì phải đi tìm người xin để cho.
(2) Còn một người "tôn trọng" điều Thiện, "quý kính" điều Thiện, nên tâm luôn luôn muốn làm thiện, thấy người nghèo khổ thời rất hoan hỉ vì mình đã gặp duyên để làm điều thiện. Trong khi bố thí dù người ấy vẫn cho người khổ hơn nhiều hơn là người khổ ít, song người ấy cho cả hai với tâm hân hoan bình đẳng. Cho rồi mà có thấy là bị lừa gạt, người ấy cũng không bao giờ thấy hối hận là mình đã cho và sẽ tiếp tục cho nữa, bởi vì người ấy rất tôn trọng và kính quý các việc làm Thiện.
Trong 2 trường hợp này, cả hai đều có Thiện Pháp, song trường hợp (1) chỉ là bố thí bằng tâm "chấp nhận" Thiện Pháp là điều hay mà thôi, chứ chưa biết tôn kính quý trọng Thiện Pháp. Trường hợp (2) là trường hợp bố thí bằng tâm quý trọng và tôn kính Thiện Pháp. Thông thường người đời chỉ biết chấp nhận Thiện Pháp, chứ chưa biết tôn kính quý trọng Thiện Pháp. Vậy ai là người biết trân quý Thiện Pháp đây? Chỉ có các người "ở trong" Phật Pháp, những người biết tuân thủ theo Pháp của chư Phật dạy mới có thể làm thiện bằng tâm tôn trọng và kính quý Pháp Thiện mà thôi.
Nói đúng ra, đã là người Phật tử là phải làm việc Thiện với tâm tôn trọng Thiện Pháp. Song vì đại đa số người Phật tử ít có duyên nghe Pháp của Phật, thế nên tuy mang danh nghĩa Phật tử, song khi làm việc thiện thì cũng chỉ biết làm bằng tình cảm hay bằng tâm "chấp nhận" Thiện Pháp. Ðại đa số người Phật tử và tất cả người thế gian có giỏi lắm thì chỉ đến mức có "lương tâm", có Thiện Pháp bằng tâm "chấp nhận" Thiện Pháp mà thôi.
Theo nhận xét, chúng ta sẽ thấy rằng người làm thiện mà chỉ mới bằng tâm "chấp nhận", thời sẽ không đi sâu vào và không tăng trưởng mạnh mẽ Thiện Pháp được. Vì chưa tuyệt đối tôn trọng Thiện Pháp, nên người ấy sẽ không lấy Thiện Pháp là hướng đi của mình, thế nên tuy có Thiện Pháp, song dễ bị tình cảm tấn công, lôi cuốn vào con đường Ác, dễ bị phiền não áp bức mà phát sinh nhiều hành động bất thiện hủy báng một cách đầy tự hào mù quáng. Như một người làm từ thiện song không có tâm tôn kính Thiện Pháp, mà chỉ có tình cảm thôi thúc muốn việc làm từ thiện của mình là có ý nghĩa nhất và duy nhất là thiện, muốn cái gì mình làm là cái đó đúng hơn hết, thế nên mình đi bố thí mà thấy người khác đi hành hương, thì cho rằng chỉ có bố thí mà mình làm mới là thiện, còn đi hành hương thời không phải là thiện, rồi từ tâm kiêu ngạo và tình cảm xung động mà bực tức đi hủy báng chuyện đi hành hương là "du lịch" uổng phí tốn tiền vô ích !!! Như thế người ấy do vì không biết rõ thế nào là Thiện Pháp, do không biết rõ nên không biết tôn trọng Thiện Pháp, do không biết tôn trọng Thiện Pháp nên chỉ làm thiện bằng tâm "chấp nhận", vì chỉ biết "chấp nhận" Thiện Pháp thôi nên dễ bị tình cảm và bản ngã xui khiến mà đâm thành hủy báng các Thiện Pháp khác còn căn bản và nền tảng hơn là việc từ thiện của họ nhiều lắm. Do đó làm thiện mà rồi vẫn đọa địa ngục là vậy !!!
Tóm lại đã là người Phật tử thì phải theo học Phật Pháp cho đến nơi đến chốn để có được một tâm tôn trọng Thiện Pháp, thì lúc đó làm thiện mới đúng nghĩa là làm Thiện.
Chúng ta đã nhận xét thấy tình cảm khác với Thiện Pháp. Song trong Thiện Pháp vẫn còn đầy dẫy các "cạm bẫy" của tình cảm. Lý do là vì: Con người vẫn cảm thấy rằng tình cảm là một năng lực rất mạnh. Nếu thiếu nó thì hình như mình không có sức làm gì nữa. Thế nên người ta muốn có "sức" làm thiện là người ta phải tìm cách khơi năng lực tình cảm dậy. Khơi dậy bằng cách "tội nghiệp" v.v... Còn nói đến việc thiện khơi khơi thôi, không có chút chất tình cảm gì trong đó thời sẽ không ai thấy hứng thú gì mà làm thiện hết !
Song sở dĩ mà chúng ta thấy Thiện Pháp khô khan không có năng lực gì hết, là bởi chúng ta chỉ "chấp nhận" với nhau Thiện Pháp là hay, là điều nên làm, ngoài ra chúng ta không "cảm thấy" chút tôn quý gì đối với Thiện Pháp hết.
Mà tại sao Thiện Pháp của chúng ta lại "bất lực" như vậy?
Bởi chúng ta không biết tôn quý Thiện Pháp cho đúng mức.
Nhưng tại sao chúng ta lại không khởi lên được lòng tôn quý đối với Thiện Pháp cho đúng mức?
Bởi chúng ta không biết gì hết đến "lợi ích" và sự tốt đẹp vô cùng của Thiện Pháp.
Mà tại sao chúng ta lại không biết đến lợi ích và tốt đẹp siêu việt của Thiện Pháp như thế?
Bởi chúng ta vốn vô minh mà lại không chịu lắng nghe Phật Pháp.
Khi nghe cho kỹ Phật Pháp rồi, chúng ta mới thấy rõ ra Thiện Pháp là nền tảng của tất cả mọi lợi ích, an lạc, sung sướng và hạnh phúc của thế gian này, của chính bản thân mình và của tất cả mọi người. Thiếu Thiện Pháp thì chỉ là địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh mà thôi! Khi thấy rõ chắc chắn như thế rồi, chúng ta mới thấy là mình phải bám chắc vào Thiện Pháp, phải "tôn thờ" Thiện Pháp, phải "theo sát" Thiện Pháp, không bao giờ dám bỏ hay làm trái lại, dù năng lực lôi cuốn của tình cảm có mạnh đến đâu đi nữa.
Khi thấy rõ được ý nghĩa nền tảng, cao quý và lợi ích không cùng của Thiện Pháp, tự động Thiện Pháp sẽ trở thành nền tảng cho sự sống và hoạt động của mình, và tự động nơi Thiện Pháp phát sinh ra vô lượng năng lực phi thường của các đại Bồ Tát. Lúc đó tình cảm sẽ hoàn toàn thua trận, hoàn toàn thảm bại, không còn thao túng làm oai làm phách, khuấy động tứ tung, xúi biểu chúng ta hung hăng làm ác và tự hào tự thị như xưa nay nữa, mà bị Thiện Pháp nhiếp phục dứt khoát, hoàn toàn khuất phục mà uyển chuyển uốn mình theo hướng của Thiện Pháp. Ðến lúc này rồi, thì chúng ta mới có thể nói đến Từ Bi được...
Do đó điều quan trọng là phải lắng nghe Phật Pháp. tại sao Phật Pháp có năng lực phi thường như vậy, có thể đánh bại hoàn toàn được năng lực tình cảm chi phối mọi hoạt động của thế gian này mà không ai thắng nổi?
Bởi vì Phật Pháp phát sinh từ Trí Huệ thấy ra Chân Lý của tất cả vạn hữu. Phật Pháp do đó là "hiện thân" của Chân Lý. Mà Thiện Pháp là một phương diện của Phật Pháp, thế nên Thiện Pháp hoàn toàn tương ứng với Chân Lý, khế hợp và "ăn khớp" với Chân Lý, hoàn toàn thuộc về Chân Lý. Do đó mà Thiện Pháp có năng lực siêu việt phi thường và đáng được tôn quý đệ nhất. Song chỉ vì chúng ta không chịu nghe Phật Pháp, nên không sao thấy ra được ý nghĩa chân chính vô thượng và ích lợi không cùng của Thiện Pháp, không thấy ra như thế thì làm sao khơi dậy được tâm tôn quý vô cùng đối với Thiện Pháp. Mà đã thiếu tôn quý hết sức như thế thì chỉ biết chấp nhận Thiện Pháp là hay mà thôi, và cứ để cho tình cảm làm chủ và sử dụng Thiện Pháp một cách rất là "nguy hiểm", nghĩa là càng làm thiện thì càng kiêu ngạo, càng mù lòa, và đắm chìm trong vô minh ác pháp mà không hay !!
Khi có được Thiện Pháp làm nền tảng rồi và Thiện Pháp đã khuất phục được tình cảm rồi, thì lúc đó người Phật tử mới đem tình cảm ra mà thương xót những kẻ khổ đau bần cùng. Sau đó mới phối hợp năng lực của tình cảm và năng lực của Thiện Pháp lại dưới ánh sáng "chỉ đạo" của Chân Lý qua Trí Huệ để mà ra tay bố thí cứu độ...
Lúc đó hành động bố thí của người Phật tử mới được gọi là bố thí "đúng như Pháp", tức đúng với Chân Lý. Bố thí như thế mới là toàn thiện, bố thí như thế mới hoàn toàn có lợi ích và đạt đến cứu cánh thoát khổ. Khi người Phật tử làm thiện như thế, sẽ không bao giờ bị tình cảm dẫn đi sai đường, sẽ không bao giờ bị phiền não làm nản chí, sẽ luôn luôn vươn lên, vươn lên không cùng...
Nhờ đâu được vậy?
Nhờ Trí Huệ thấy ra Khổ và Sướng thật sự là gì? Nên bao giờ chúng sinh hết cái Khổ vô minh, được cái Sướng Niết bàn, thì người con Phật mới thấy hoàn tất công việc làm Thiện của mình. Thiện như thế mới đúng là Thiện trong Ðạo Phật. Thương xót chúng sinh ra tay cứu khổ trên nền tảng Thiện Pháp tràn ngập Trí Huệ và Chân Lý như thế, mới đúng là thương xót của Ðại Từ Ðại Bi trong Ðạo Phật
Tóm lại muốn nói đến Từ Bi, chúng ta phải biết đến 3 pháp là: Chân Lý, Thiện Pháp và Tình cảm.
Người đời chỉ biết dùng tình cảm để làm thiện, và coi tình cảm là từ bi. Nhưng với Ðạo Phật, thì tình cảm còn chưa được coi là Thiện Pháp nữa, chứ đừng nói đến Từ Bi. Muốn Từ Bi phải có Trí Huệ thấy ra Chân Lý Nhân Quả Nhân Duyên và Khổ Sướng của vạn hữu muôn loài. Rồi từ Trí Huệ ấy mới hiểu rõ được giá trị cao quý đệ nhất của Thiện Pháp, nhờ vậy khởi lên tâm tôn trọng Thiện Pháp tối thượng. Rồi từ Trí Huệ và tâm tôn trọng Thiện Pháp ấy mới khuất phục và "giáo hóa" tình cảm cho trở về với đường ngay nẻo chánh. Rồi cuối cùng hết, khi tình cảm đã thuần thục theo Chân Lý và Thiện Pháp rồi, lúc ấy mới dùng tình cảm mà thương xót khổ đau của muôn loài, do vô minh mà chịu tất cả mọi Khổ đau. Từ thương xót ấy mới phát Nguyện cứu độ muôn loài bằng cách phá tan vô minh cho họ qua sự khai mở giáo hóa về Chân Lý, và từ phát Nguyện ấy mới bắt đầu hành động... Lúc đó tâm thương xót, Nguyện được phát ra và hành động sau đó dựa trên Nguyện, mới được gọi chung là Từ Bi vậy...
----- Hết ------
Thứ Bảy, 15 tháng 12, 2007
khai thị
Tiếng Việt Trang nhà Quảng Đức
Tiếng Anh
Phật Học Cơ Bản
--------------------------------------------------------------------------------
...... ... .
Khai Thị
Đại Sư Tuyên Hóa
Việt dịch: Ban Phiên Dịch Đại Học Pháp Giới,
Vạn Phật Thánh Thành
--- o0o ---
Phần 08
71. Giữ Đúng Quy Cũ Thiền Đường
72. Bỏ Hết Lòng Đố Kỵ Và Kiêu Mạn
73. Các Vị Đều Là Thiện Tri Thức
74. Nhận Ra Bổn Lai Diện Mục
75. Tham Thiền Chính Là Trì Giới
76. Luyện Thành Thân Kim Cương Bất Hoại
77. Thiền đường Là Nơi Tạo Thánh Nhân
78. Cày Được Phần Nào, Thâu Hoạch Được Phần Đó
79. Chịu Khổ Là Nền Tảng Tu Phật
80. Một Niệm Chẳng Sanh Toàn Thể Hiện
81. Tu Ðạo Không Thể Sanh Tâm Sân
--- o0o ---
71. Giữ Ðúng Quy Củ Thiền Ðường [^]
98 ngày Thiền thất sắp sửa bắt đầu. Trong số các vị xuất gia, mỗi ngày sẽ có một vị Duy-na, phụ trách các công tác khai tĩnh, chỉ tĩnh; lại có thêm một vị đương trị để lo cung cấp nước trà. Mỗi ngày ba lần dùng trà, hay bốn lần cũng được, tùy tiện theo tình hình, không nhất định, "vô định pháp" mà! Bởi mọi người tận lực dụng công thiền định, nên khí hỏa bốc lên, do đó uống trà nhiều có thể hạ hỏa xuống. Tuy nhiên, phải chú ý! Chớ có làm bể ly trà. Quý vị phải biết rằng Hòa-thượng Hư Vân khi xưa đánh rớt chén trà, nghe tiếng chén bể mà khai ngộ, đó chỉ là một việc không cố ý. Còn người nào cố ý làm bể ly trà thì vĩnh viễn không bao giờ có thể khai ngộ được, vì chính quý vị đã cố ý như thế. Cho nên nói: "hữu tâm thị vọng tưởng, vô tâm thị cảm ứng." Quý vị không có lòng nghĩ làm bể mà hóa ra làm bể, vậy mới hay đó!
Trong lúc ngồi thiền, không người nào được nói chuyện. Mỗi người tự mình chiếu cố thoại đầu của mình, tự mình dụng công. Trông thấy bất cứ ai, cũng mặc kệ. Tại sao? Bởi không người, không ta mà! Ai tới thì tới, ai đi thì đi, chỉ chuyên tâm chuyên chí tham câu "niệm Phật là ai?" trong thời gian 98 ngày ắt có kết quả.
Trong kỳ thiền thất mùa đông này, những ai chưa khai ngộ sẽ bị phạt một trăm ngày quỳ hương trước ban thờ Phật. Còn đối với vị nào khai ngộ, tôi xin thiết một đại tiệc khai ngộ, muốn ăn thức gì sẽ có thức ấy, bảo đảm cả trăm vị đầy đủ. Có câu nói: "Thiên trù diệu cúng, thiền duyệt tô-đà." Lúc ấy được coi là giờ phút quang vinh nhất trong đạo Phật. Quý vị nhớ! Muốn khai ngộ, ta phải giữ quy củ đó! Như không muốn khai ngộ, thì xin cứ tùy tiện, không ai bó buộc quý vị.
--------------------------------------------------------------------------------
72. Bỏ Hết Lòng Ðố Kỵ Và Kiêu Mạn [^]
Bây giờ thiền thất bắt đầu. Bao nhiêu thứ gọi là đố kyï, kiêu mạn, quý vị phải bỏ xuống hết. Bây giờ tôi khảo nghiệm thử xem quý vị có thực lòng buông bỏ các thứ đó hay không. Khảo bằng cách nào? Ðầu tiên là đánh bằng hương bản. Bị đánh mà không biết đau, thì cho là được, là đủ tư cách tham gia ban thiền thất mùa đông này.
Thế nhưng, không biết đau thì trơ trơ như cái bàn, không có tri giác; còn biết đau tức là không buông bỏ được. Vậy tại chỗ này, chúng ta hãy tham xem - làm cách nào đây?
Bây giờ kẻ bị đánh không bỏ chạy mới là kẻ đại trượng phu. Ðã là đại trượng phu, thế tất phải có khí độ anh hùng, không sợ khốn khổ, không sợ gian nan, đầy tinh thần chịu đựng khắc khổ, trong thời gian 98 ngày, không thối chuyển, từ đầu thông suốt tới cuối. Phải có một niềm quyết tâm, coi chết nhẹ như không, như vậy mới thành công được.
Trước khi vào thiền, tôi có bài kệ nầy:
Ðại địa xuân hồi bách vật sinh
Phấn toái hư không tự tại ông
Tòng thử bất lạc nhân ngã tướng
Pháp giới tuy đại tận bao dung.
Ðại địa xuân hồi bách vật sinh: Kỳ thiền thất này chính là khí tượng của xuân về. Trăm loài hân hoan nẩy sinh tươi tốt. Mọi người đều gặp cơ hội khai ngộ và ánh sáng tự tánh cùng xuất hiện.
Phấn toái hư không tự tại ông: Hư không vốn là vô hình, nếu quả hư không mà tan vụn (phấn toái) thì hư không cũng không có nữa. 'Tự tại ông' lúc đó, mới thật là đúng tư cách!
Tòng thử bất lạc nhân ngã tướng: Từ đó trở về sau sẽ chẳng còn vướng vào nhân tướng, chẳng vướng vào ngã tướng. Nhân không, pháp cũng không. Nhân pháp đều không, thế là tự tại, cũng không còn chấp ngã, chấp pháp. Không chấp trước, chính là giải thoát.
Pháp giới tuy đại tận bao dung: Tuy pháp giới là không bờ không bến, nhưng ta vẫn có thể ôm trọn pháp giới vào trong, nói cách khác, so với pháp giới ta còn to lớn hơn nữa. Thế mới là khả năng của kẻ đại trượng phu.
Tự mình phải dụng công của mình. Công phu gì? Ðó là tham câu: "Niệm Phật là ai?" hay tham: "Trước khi cha mẹ sanh ra thì bổn lai diện mục ta là gì?" hoặc câu: "Thế nào là chẳng thể không có!" Nỗ lực dụng công, nhất định sẽ có tin hay (khai ngộ). Bây giờ bắt đầu vào thất! Vào! Vào! Vào! Thiền thất chính thức bắt đầu, cấm nói chuyện!
--------------------------------------------------------------------------------
73. Các Vị Ðều Là Thiện Tri Thức [^]
Các vị Thiện tri thức! Tại sao lại xưng hô quý vị là Thiện tri thức? Nếu chẳng phải là Thiện tri thức thì quý vị chẳng khi nào đến Bát-nhã đường (thiền đường). Phàm đến Bát-nhã đường để tu hành thì tất cả đều là Thiện tri thức, do đó mới xưng hô quý vị là Thiện tri thức.
Bát-nhã là tiếng Phạn (Prajna), dịch nghĩa thành trí huệ. Quý vị đều là bậc Ðại trí huệ mới đến Bát-nhã đường. Tại sao là Ðại trí huệ? Bởi trong các kiếp quá khứ quý vị đã từng gieo nhiều căn lành, nhiều hạt giống Bồ-đề. Cũng chính là trong quá khứ, quý vị đã đời đời kiếp kiếp cúng dường Phật, cúng dường Pháp, cúng dường Tăng. Ðã tích lũy những công đức như thế, thì ngày nay nhân duyên thành tựu, mới tham dự khóa thiền. Ðây chẳng phải là nhân duyên nhỏ, mà là nhân duyên to lớn, cũng là nhân duyên của việc liễu sinh thoát tử, mà cũng có thể nói là nhân duyên thành Phật. Bởi các lý do trên nên mới xưng hô quý vị là thiện tri thức.
Thiện tri thức chính là biết con đường thiện, không biết con đường ác. Nếu biết đường ác thì phải kêu là ác tri thức. Thế nào là thiện tri thức? Thiện tri thức là chánh tri chánh kiến, hành động hợp với Phật pháp, tu tập chiếu theo Phật pháp, từng hành động cử chỉ đều tương ứng với Phật pháp. Thế nào là ác tri thức? Ác tri thức thì tà tri, tà kiến, chuyện gì cũng đi ngược với Phật pháp, tức như câu nói "bội đạo nhi trì" quay lưng với đạo mà đi.
Nay quý vị tụ hội tại Bát-nhã đường, nhất tâm thiền định để cầu khai ngộ và đại trí huệ. Nếu thực sự sáng suốt, chân chánh giác ngộ, quý vị sẽ tuyệt đối không làm chuyện điên đảo nữa. Giác ngộ và sáng suốt như vậy nhất loạt đều do công phu tu hành mà thành tựu. Bởi vậy kẻ tu hành không nên sợ khổ, sợ khó khăn. Khi đã ngồi thiền thì chân đau cũng mặc, lưng mỏi cũng không quan tâm, phải giữ vững tinh thần đại vô úy, sống chết với thiền, sống chết với tu, tuyệt đối không thể vì đau mỏi mà đầu hàng, phải làm kẻ đại trượng phu, đại anh hùng.
Kẻ tu hành cần phải có một sự kiên nhẫn không lay chuyển, một ý chí không lùi bước, trước mọi nghịch cảnh tuyệt đối không cúi đầu, tuyệt đối không bị khuất phục. Chân đau lại càng cố chịu đựng, lưng mỏi càng cố gắng. Buồn ngủ ư? Mở to hai mắt, thách thức ma ngủ. Càng buồn ngủ càng tốt, đàng nào cũng tham, tham cho tới lúc dương khí đầy đủ trở lại, thì ma ngủ phải bỏ chạy. Nếu như chúng ta không chiến đấu với ma ngủ, thì ta sẽ muôn đời làm nô lệ cho nó, nghe theo mệnh lệnh của nó và sẽ chịu nó sai khiến.
--------------------------------------------------------------------------------
74. Nhận Ra Bổn Lai Diện Mục [^]
Mục đích chúng ta tham gia thiền thất là cầu khai mở trí huệ, trở về tận cùng gốc gác của mình, tuyệt đối phải nhận ra bổn lai diện mục.
Bổn lai diện mục của chúng ta ra sao? Cùng với chư Phật là một, chẳng sai khác. Có điều chúng ta là chúng sanh không có trí huệ nên không nhận ra nó, và cũng từ nguyên nhân đó mà trở thành điên đảo, quay đầu lộn đuôi, sanh tử trong cảnh mơ mộng hỗn độn, thậm chí còn biến hiện thêm, khiến cho đã mê càng thêm mê, đã ở trong mộng còn thêm mộng, trong chỗ điên đảo còn thêm điên đảo. Vì sao đến nỗi như vậy? Bởi vì không được gặp Thiện tri thức, không được ai mách bảo lối về quê hương, tức con đường tìm bổn lai diện mục. Nay rất đông Thiện tri thức tụ hội tại đây, cùng nhau hướng tới con đường rộng lớn, quang minh để tìm vể bổn lai diện mục. Ðúng là:
Thập phương đồng tụ hội
Giai kỳ học vô vi
Thử thị tuyển Phật trường
Tâm không cập đệ quy.
Nghĩa là:
Mười phương cùng tụ hội
Ai nấy học vô vi
Ðây là trường tuyển Phật
Tâm không đậu vinh quy.
Quý vị Thiện tri thức từ mười phương, tới Bát-nhã đường này cùng nhau học tập pháp vô vi. Bát-nhã đường chính là trường tuyển Phật. Ai tới được chỗ vô nhân vô ngã thì người đó được chấm đậu. Ai không buông bỏ nổi, kẻ đó bị đánh rớt. Ai được tâm không đây? Người đó được đỗ Trạng nguyên. Lúc đó, áo gấm về làng, rạng rỡ Tổ tông.
Như muốn làm kẻ đại trượng phu, đại anh hùng, vậy phải ngồi xuống tham thiền, mới có thể đạt mục đích. Ðại anh hùng chính là bậc đại giác, đại giác chính là Phật. Ngồi thiền mà đạt tới cảnh giới vô ngã, thì chân có đau cũng không hay, lưng có mỏi cũng không biết. Trong, không cảm thấy thân tâm, ngoài, không biết có thế giới, tới lúc đó, trong khoảnh khắc, bừng lên đại ngộ: vốn là như thế!
Nếu rõ ràng có ngã, thì có "cái ngã" ở chỗ này. Quý vị ở tại chỗ này, ai không ở tại chỗ này? Không ở tại chỗ này cũng là ai đó? Không ai ở tại đây, cũng chẳng ai không ở tại đây, cho nên gọi là vô ngã.
Nguyên do vì không có tại, nên mới không có ngã. Nếu còn có tại thì còn có ngã tại. Có tại thì đúng ra phải là tự tại, chớ không phải ngã tại. Tự tại không thể có ngã, nếu có ngã thì không phải tự tại. Có ngã nên mới sanh lắm chuyện phiền phức, kể ra không thể hết được. Nào, ngủ chẳng đủ, tinh thần không khoan khái. Ăn chẳng đủ, bụng không dễ chịu. Mặc không đủ, thân thể ớn lạnh. Bởi đâu mà có những hiện tượng đó? Bởi chưng có cái ngã. Muốn không có ngã, chỉ còn một biện pháp, đó là đến thiền đường mà ngồi thiền, thiền tới thiền lui, thiền cho tới lúc đạt được vô ngã, đạt được cảnh giới gọi là: "Vô nhân vô ngã Quán tự tại, phi không phi sắc kiến Như-lai." Tới lúc đó thì tự tại vô cùng, tự khắc sẽ biết bổn lai diện mục là như thế nào. Tuy nhiên, tới được cảnh giới đó chẳng phải dễ dàng. Bởi vậy mới cần phải gắng sức nhẫn chịu, chịu đựng mọi thống khổ, mọi sự gian nan. Như quả qua được cửa ải này thì sẽ gặp một sự thống khoái: chính là ăn bằng niềm vui thiền duyệt, và sống trong pháp hỷ.
Bất luận làm một công việc gì, buổi đầu tương đối khó khăn. Lâu dần, sẽ thành quen, không cảm thấy khó nữa. Ngồi thiền cũng như vậy. Trong thiền đường, cố gắng chịu đựng, khi đã chịu đựng được rồi thì không còn cảnh giới nào làm cho giao động. Vậy là đã có chút ít định lực. Có một chút định lực tức sẽ có chút huệ lực. Tích tiểu thành đại, khi huệ lực đầy đủ thì tự khắc khai ngộ.
--------------------------------------------------------------------------------
75. Tham Thiền Chính Là Trì Giới [^]
Chúng ta ngồi thiền, nhất tâm tham, tham "niệm phật là ai?" và giữ vững câu thoại đầu này, liên miên không nghỉ, mật thiết không hở. Vậy trong thời gian tham "niệm Phật là ai?" chúng ta có thể gây được nghiệp xấu chăng? Như là sát sanh, ăn trộm, tà dâm hoặc nói dối, uống rượu, được chăng? Tuyệt đối không thể có những chuyện đó. Vậy là trì giới. Có câu nói: "Bất trì chi trì" chẳng dụng ý trì giới mà tự nhiên trì giới. Trì giới sẽ sanh định lực, do định mà sanh ra huệ. Còn như trong thời gian không tham thiền, đầu óc nổi lên nhiều vọng tưởng, xui khiến người ta có thể sát sanh, ăn trộm, tà dâm, nói dối, uống rượu, thậm chí có thể vọng động đủ thứ chẳng kể việc gì. Một niệm sai lầm, có thể nẩy sanh biết bao nghiệp tội. Ngồi thiền ở đây, chẳng còn vấn đề gì nữa, mọi thứ đều được giải quyết, đó là ý nghĩa chẳng dụng ý trì giới mà tự nhiên trì giới.
Ngồi thiền ở đây tức là chăm tu giới định huệ. Tu giới định huệ tức là diệt trừ tham sân si. Cho nên tham thiền bao gồm đầy đủ các pháp tu, hết mọi pháp đều nằm trọn trong tham thiền. Chúng ta tham, nhưng phải tham hoạt thiền, càng tham càng có trí huệ. Chớ có tham tử thiền, càng tham càng ngu si, lấy mặt trời cho là mặt trăng, há chẳng phải là điên đảo sao?
--------------------------------------------------------------------------------
76. Luyện Thành Thân Kim Cương Bất Hoại [^]
Chúng ta tham thiền để khai mở trí huệ. Khi chưa tới lúc trí huệ khai mở, chúng ta nhất định phải gặp khổ. Thí dụ khi ta dùng lửa lớn để luyện hoàng kim, đốt lên ta sẽ biết thật hay giả. Người ta nói: "Chân kim bất phạ hỏa luyện" vàng thật chẳng sợ lửa của lò. Vô luận luyện cách nào, trọng lượng vẫn không giảm thiểu, mầu sắc lại càng thêm sáng. Thiền đường chính là một lò luyện lớn. Quý vị đều là vàng thật, tại nơi đây luyện thành thân kim cương bất hoại.
Muốn thành thân kim cương bất hoại, lúc đầu phải chịu khổ đã. Khổ tận cam lai, sau đó mới có thể đạt được cảnh giới như vừa kể. Mọi người ráng sức tham đi! Tham đi! Tham cho thấu suốt, ắt thành thân kim cương bất hoại.
Có người nói:
- Cái khổ này, thiệt là chịu không nổi.
Ai biết nó khổ, ai biết nó đau. Lại có người bảo:
- Tôi biết khổ, tôi biết đau.
Quý vị là ai đó? Lại có người bảo:
- Tôi là chính cái thân thể của tôi.
Thân thể của quý vị là quý vị, vậy giả sử quý vị chết rồi thì thân thể của quý vị vẫn còn ở đây chớ? Cớ sao đánh nó, nó lại không biết đau; chửi nó, nó vẫn nhẫn chịu? Lại có người bảo:
- Bởi vì chết rồi nên không còn vấn đề gì nữa!
Vậy thì, ở đây ta coi như chết rồi vậy, cho nên có câu: "Dục yêu nhân bất tử, tiên tác hoạt tử nhân" nghĩa là muốn thành kẻ bất tử, trước hết hãy sống như người chết.
Nay tự ta hãy làm thành người chết, tức là ta sẽ không có tham, không có sân và si. Tại sao có tham sân si? Bởi vì quý vị chưa coi cái thân thể quý vị như một cái thây chết. Nếu đã chết thì còn tham gì nữa? còn sân gì nữa? Còn si gì nữa? Bây giờ, tuy quý vị chưa chết, nhưng hãy cứ làm như chết. Vậy là còn tham cho ai? Sân cho ai? Si cho ai nữa? Cái chết của tham thiền chẳng phải là chết thiệt. Muốn được khai ngộ, tất phải chết một lần, sau đó mới luyện thành thân kim cương bất hoại.
--------------------------------------------------------------------------------
77. Thiền Ðường Là Nơi Tạo Thánh Nhân [^]
Hồi Ðức Phật Thích Ca tu ở Tuyết-sơn, chỉ ăn một hạt mè, một hạt mì để duy trì sanh mạng. Vì câu chuyện này mà ai ai cũng biết tới Tuyết-sơn. Về sau, Phật đến gốc cây Bồ-đề ngồi tĩnh tọa suốt 49 ngày thì Ngài ngộ đạo, chứng được quả Phật, nên nơi này đã trở thành thánh địa, đúng như câu nói: "Nhân kiệt địa linh" Ðược gọi là Thánh địa cũng là nhờ danh tiếng của Thánh nhân. Phàm Thánh nhân ở chỗ nào thì chỗ đó biến thành thánh địa. Kẻ phàm phu ở chỗ nào, muốn chỗ đó là thánh địa cũng không thể thành thánh địa được.
Người xưa có câu: "Thiên thời không bằng địa lợi, địa lợi không bằng nhân hòa" - thiền đường chúng ta cùng tu hành với nhau, đó chính là nhân hòa. Chẳng làm phiền lòng bất cứ ai, gọi là như pháp. Ðạo tràng như pháp mới được như vậy. Có đạo tràng mới có chỗ để mà tĩnh tu, và có tĩnh tu mới được trí huệ. Nếu không có đạo tràng thì dù có muốn tĩnh tu cũng đành chịu. Bây giờ, may mắn chúng ta có được đạo tràng, chúng ta phải nghiêm cẩn tu hành mới đúng.
Thánh địa của chúng ta chính là Bát-nhã đường, nơi chuyên tạo các thánh nhân - chẳng phải người thường, mà là thánh hiền cả, hoặc A-la-hán, hoặc Bồ-đề-tát-đõa. Ai là thánh nhân đều chẳng sợ khổ, chẳng sợ khó. Ai còn sợ khổ, sợ khó, bây giờ tuy chẳng phải là Thánh nhân, tương lai cũng là Thánh nhân. Nói vậy nghĩa là sao? Vốn là, tôi đã từng có lời phát nguyện: "Phàm các đệ tử đã quy y với tôi, nhất định sẽ thành Phật. Nếu không thành Phật, ắt là tôi sẽ chờ họ tới lúc họ thành Phật." Tôi biết chắc tương lai rồi họ cũng thành Phật, cho nên mới nói sau này họ sẽ là Thánh nhân.
Ðối với các quý vị, tôi hết sức kỳ vọng, mong quý vị nỗ lực dụng công, chớ có trễ nải, chớ có phóng dật, giữ gìn quy củ, y pháp tu tập, để quyết tâm thành kẻ thánh nhân. Tôi hy vọng trong 98 ngày quý vị thành tựu được quả Thánh nhân kim cương bất hoại.
Ngài Lục tổ có nói:
Phật pháp tại thế gian
Bất ly thế gian giác
Ly giác mịch bồ đề
Cáp như cầu thố giác.
Dịch nghĩa:
Phật pháp ở thế gian
Chẳng (có) giác (giác ngộ) ngoài thế gian
Tìm Bồ-đề ngoài thế gian
Chẳng khác kiếm sừng thỏ.
Căn cứ bốn câu trên trong Kinh văn để phân tích, người tu hành phải có, mà người hộ pháp cũng phải có. Quý vị! Ðã nguyện ý xuất gia thì tu pháp, đã nguyện ý tại gia thì hộ pháp. Ai ai cũng làm hết trách nhiệm của mình, làm tròn phận sự của mình. Người xuất gia thì thực lòng tu tập, người tại gia thì thành tâm hộ pháp, mỗi người theo đúng công việc của mình mà làm!
Hết mọi pháp đều là pháp Phật, có cái gì để vui mừng hay không vui mừng? Tham thiền thì ở tại chỗ này dụng công, không nên mang tâm yêu ghét, mà phải dụng công với tâm bình thường. Ví dụ như, mặt nước hồ trong tiết xuân, không gợn sóng, nên các thứ hỗn tạp tự nhiên lắng xuống, làm cho mặt nước lặng và trong. Tham thiền cũng giống như vậy, chẳng có vọng tưởng, thì pháp thân xuất hiện. Mấy câu pháp trên rất là quan trọng, mong quý vị y theo ý nghĩa đó tu hành, tức trí huệ sẽ chóng khai mở. Có câu rằng: "Thuyết đích thị pháp, hành đích thị đạo" nghĩa là, nói ra là pháp, làm ra là đạo. Nay, biết pháp mà không hành đạo, thì chẳng đúng chút nào.
--------------------------------------------------------------------------------
78. Cày được Phần Nào, Thâu Hoạch Ðược Phần Ðó [^]
Nhân dịp cử hành khóa thiền này, rất nhiều người không tin có một nơi nào người ta lại dụng công tu hành như vậy. Có người thì cho rằng chúng ta nói chơi, có người bảo chúng ta khùng. Nếu không, sao lại không ngủ, lại ăn ít, mỗi ngày công phu 21 tiếng đồng hồ? Không thể có chuyện đó, tuyệt đối không làm được đâu! - ngoài người ta phê bình như vậy. Tuy nhiên đối với chúng ta, nhất định chúng ta sẽ thực hiện viên mãn, làm cho họ thất kinh một phen và phải thốt lên rằng: ? Thật sự tu hành!
Mỗi ngày một dũng mãnh tinh tấn, tuyệt đối không thụt lùi, để cho mọi người nhận thấy chúng ta thật sự tu, còn họ thì bị bỏ lại, làm kẻ lạc hậu. Chúng ta phải tiến lên trước họ, để thành những người lãnh đạo của họ, đặng dẫn họ vào con đường tu hành. Muốn thành người lãnh đạo tất nhiên phải tu hành chân chánh. Trong thời gian tu tập, một phút cũng không bỏ uổng, từng giờ từng khắc, từng niệm không quên "niệm Phật là ai?" Ðiều tối kyï trong việc tu hành là sự lười biếng. Nếu quả có lười biếng thì không tới được chỗ đó. Chỗ đó là ở đâu? Là ở chỗ hết sức mầu nhiệm không thể nói ra được. Cảnh giới đó không thể nghĩ bàn, như người uống nước, nóng hay lạnh người đó tự khắc biết, người ngoài không biết được, chỉ có thể tự mình thể hội mà thôi.
Nếu có cơ hội gặp khóa thiền, ta phải tham dự cho kỳ được. Dự một lần, thâu hoạch được một lần. Không ăn, có thể chịu đói, nhưng không tham gia thiền thất thì không được; không có áo có thể chịu lạnh, nhưng không tham gia thiền thất thì không được. Bởi các chư Phật mười phương đều phải đi qua con đường ấy mới thành Phật quả.
Có người sợ khổ, không dám tham gia thiền thất, đó là một quan niệm sai lầm. Trong quá khứ, chúng ta chưa từng gặp những khóa thiền thất như thế này, thế cho nên chúng ta cứ sanh tử mãi trong vòng luân hồi. Nếu quả đã từng tham gia thiền thất, thì chắc chắn chúng ta không vọng tưởng, chắc chắn không điên đảo; đối với ngũ dục tài, sắc, danh, thực, thùy, tuyệt đối không tham luyến; coi ngũ dục như năm con đường dẫn tới địa ngục vậy.
Ngồi tĩnh tọa tham thiền, khi hỏa hầu tới mức, thì sẽ có một loại định lực kim cương, khiến cho chúng ta không bị ngũ dục lay chuyển. Khi đó, tài chẳng ham, sắc chẳng ham, danh chẳng ham, ăn chẳng ham, ngủ chẳng ham, ngay trong mộng cũng không còn một ý niệm tham dục, trong mộng mà tâm cũng thanh tịnh, đó mới là cảnh giới sẽ đạt tới. Rồi kế đó lại dấn bước thêm tu hành, hành giả sẽ đạt cảnh giới không mộng để thành tựu quả thánh.
Người ta trong lúc tỉnh còn làm chủ được mình. Ngoại cảnh có thể đến dụ, nhưng lý trí kiên cường, định lực sung túc thì ngoại cảnh cũng không thể lay chuyển. Tuy nhiên ở trong mộng thì không làm chủ được. Thấy quỷ thì sợ quỷ, thấy hổ sợ hổ, thấy tiền tài ham tiền tài, thấy sắc ham sắc, tức là bị ngoại cảnh mê hoặc. Thản hoặc, trong mộng có thể làm chủ được, nhưng trong bệnh tật thì lại không được. Hoặc trong khi bệnh tật làm chủ được, đến khi chết lại làm chủ chẳng được. Muốn làm chủ khi sống cũng như khi chết, tất phải tham thiền. Dụng công như vậy, một phần công phu sẽ mang lại một phần thâu hoạch, mười phần công phu sẽ có mười phần thâu hoạch. Có câu nói: "Ông tu ông chứng, bà tu bà chứng" ai tu người ấy chứng, chẳng tu thì chẳng chứng. Giá trị tu hành phải dựa vào chính công phu chân thật của mình, có như vậy thì mới đi lại tự do, tâm thể thanh thản, bởi vì trong thế gian không hề có chuyện không công lao mà được thâu hoạch.
--------------------------------------------------------------------------------
79. Chịu Khổ Là Nền Tảng Tu Phật [^]
Ðức Phật Thích Ca đã thành Phật từ vô lượng kiếp trong quá khứ. Tuy nhiên, do tâm đại từ đại bi của Ngài muốn cứu độ các chúng sinh, đặc biệt những ai chưa có tâm trường vinh, không đủ tâm kiên cố và thành khẩn, do đó Ngài thị hiện thành Phật để dẫn dắt họ.
Ðể nêu ra cái yếu tố căn bản, trong sáu năm Ngài tu khổ hạnh tại Tuyết-sơn. Tại sao phải khổ tu? Bởi khổ tu là nền tảng để thành Phật. Thí dụ chúng ta xây nhà lầu thì công việc đầu tiên là làm nền móng cho kiên cố, sau đó mới xây lên thành lầu cao. Nền móng không chắc thì không thể được, chẳng khác gì xây nhà trên bãi cát vậy.
Chúng ta ngồi thiền tại thiền đường này, so với ở Tuyết sơn thì tốt hơn nhiều lắm. Tuy ăn không ngon, nhưng không đến nỗi đói ăn, ốm nhom như que củi. So với đức Phật Thích Ca ở Tuyết-sơn thì dễ chịu hơn biết bao! Nay, chúng ta đã có đủ cơ hội như thế này, có đạo tràng tổ chức thiền tập như vậy, chúng ta nhất định phải phấn chấn tinh thần mà ráng sức tham thiền. Chúng ta phải bắt chước tác phong của Bồ-tát Vi-đà, oai nghi lẫm liệt, cầm chày kim cương để hàng phục ma ngủ, chớ không phải để đầu hàng nó. Ðầu gục xuống trước bụng là không phải tư thế đúng đắn của người tham thiền. Cũng chớ có học thói con rùa đen, rụt đầu rút cổ lại, đó cũng chẳng phải oai nghi của người tu thiền.
Dụng công tham thiền cũng không nên làm quá dữ, hay quá yếu ớt, một đàng thì thái quá, một đàng bất cập. Tu hành là phải giữ trung đạo, tránh sự thiên lệch, cho nên có câu nói: "khẩn liêu băng, mạn liêu tùng, bất khẩn bất mạn tài thành công" nghĩa là: gấp thì căng, nới thì chùng, chẳng gấp chẳng nới mới thành công. Cứ như vậy, ngày ngày dụng công, từng giờ dụng công, không gấp, không nới, dần dà tới lúc thành công và thành công tức là đạt tới cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Ðạt tới cảnh giới đó không quá vui mừng, mà không đạt được cũng không quá bi ai. Như nếu quá hoan hỷ, thì ma hoan hỷ lại tới quấy nhiễu làm ta mất định lực, khiến cho từ sáng tới tối cứ khúc khích cười, không còn vẻ tự nhiên nữa. Có ai hỏi cười cái gì? Không biết. Chẳng hiểu tại sao mà cười, như kẻ phát cuồng, đó chính là ma cuồng ám. Nếu để lòng bi ai quá độ, thì ma bi ai sẽ tới quấy nhiễu, làm ta mất định lực, khiến cho từ sáng đến tối cứ thút thít khóc, một cách bất bình thường. Hỏi tại sao khóc? Nói: "Chúng sanh quá khổ ạ! Ðáng thương quá! Tôi muốn cứu độ chúng sanh." Chính mình chẳng độ được mình, thì làm sao độ được chúng sanh? Ðó chính là hiện tượng ma bị ai đến ám.
Tại thiền đường chúng ta chuyên tâm tham thiền, chân có đau cũng ráng nhẫn. Nhẫn đến cực điểm thì sẽ hết đau. Tại sao? Vì khổ tận cam lai, sau đó là tốt đẹp, cho nên nói cái khổ chính là nền tảng thành đạo. Mấy câu sau đây diễn tả ý nghĩa của cái khổ này:
Bất kinh nhất phiên hàn triệt cốt
Chẩm đắc mai hoa phác tyï hương.
Dịch nghĩa:
Chửa nếm một phen lạnh thấu xương
Ðâu được thưởng thức hương hoa mai
--------------------------------------------------------------------------------
80. Một Niệm Chẳng Sanh Toàn Thể Hiện [^]
Nguyệt đáo thiên tâm xứ
Phong lai thủy bất thức
Nhất cổ thanh dị vị
Lược đắc thiểu nhân tri
Cảnh giới nói trên chính là hình ảnh dụng công của người tu. Công phu tới độ có thể ví như mặt trăng chiếu giữa bầu trời, gió thổi ngay trên mặt nước, mà một chút sóng gợn cũng không có. Ðúng là một cảnh tượng vừa thanh tịnh vừa nhu hòa, một ý vị lạ, không mấy ai biết tới.
Dụng công mà tới được chỗ không ta, không người, không chúng sanh, không thọ giả, trong thì không cảm thấy thân tâm, ngoài không hay có thế giới, lúc đó mới lãnh hội được cái ý vị mầu nhiệm này. Có điều rất ít người biết, vì phải qua kinh nghiệm thể hội của chính mình mới biết được.
Tu đạo là tự mình tu cho mình, tự mình dụng công cho mình. Không phải tu cho người khác, không phải dụng công giùm người khác. Có câu rằng: "Việc sanh tử của chính mình, do chính mình giải quyết; tự mình ăn thì tự mình no." Quý vị tu hành thì quý vị có thể liễu thoát sanh tử, bằng chẳng dụng công thì dĩ nhiên quý vị chẳng thể giải thoát sanh tử.
Chúng ta tu tập phải làm sao thành kẻ vô tâm, tức là trong không thân tâm, ngoài không thế giới, với hư không là cùng một thể. Ðó là lúc mà chấp nhận cũng không, và chấp pháp cũng không. Làm thế nào chứng được cảnh giới đó? Phải tu thiền. Tham thiền thì phải một dạ đinh ninh, tập trung tư tưởng, đầu óc không nghĩ lung tung, giống như mèo rình chuột, như gà ấp trứng, như rồng nuôi hạt châu, hết lòng giữ gìn, chú ý, chuyên tâm mới tới được đích.
Chúng ta tham câu: "Niệm Phật là ai?" Chữ "ai" chính là con chuột và chỗ ngồi tham này cũng chính là miệng lỗ chuột, do đó từng giây từng phút không được chểnh mảng. Nếu sơ hở để chuột chạy mất thì bắt làm sao được "ai?" Bởi vậy mới có câu nói: "Một niệm chẳng sanh toàn thể hiện, sáu căn vừa động bị mây che." Khi một niệm chẳng sanh thì toàn thể cái "đại dụng" hiện bầy, cái gốc trí huệ hiển lộ, nhưng một khi sáu căn, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, dấy động thì chẳng khác gì trời đương quang đãng mà có mây kéo đến, che lấp mặt trời.
Khi một niệm chẳng sanh thì bên trong không thân tâm, bên ngoài không thế giới. Ngồi thiền trong cảnh giới này sẽ không còn hô hấp nữa tuy chẳng phải là đã chết. - bên ngoài không hô hấp nữa, nhưng bên trong, hô hấp vẫn còn hoạt động. Nếu khởi lên ý nghĩ rằng: "A! ta đã hết thở rồi!" thì tự nhiện sự hô hấp tiếp tục trở lại. Một niệm chẳng sanh, hô hấp ngừng lại, đó chính là chuyển pháp luân vô hình, hát khúc ca vô sanh vậy!
--------------------------------------------------------------------------------
81. Tu Ðạo Không Thể Sanh Tâm Sân [^]
Trước đây có một vị tu định gọi là phi phi tưởng xứ định, ý muốn sanh lên tầng trời phi phi tưởng xứ. Ông ngồi tu bên bờ biển. Lúc sắp vào định ông nghe có tiếng động từ dưới nước phát lên. Ông ngó xuống thấy một con cá bơi lội dưới nước. Ông bèn tiếp tục việc tu, không để ý gì tới con cá. Tuy nhiên, dưới nước lại phát ra tiếng động ồn ào, liên miên không dứt. Ông mở mắt ra trông xuống, hóa ra lại vẫn con cá đó bơi đi bơi lại trước mặt ông. Một niệm bực tức nẩy sinh trong lòng, ông bèn nói với con cá: "Mày còn phá không cho ta nhập định, ta sẽ ăn thịt mày, nuốt trửng mày vào bụng đó!" Con cá nghe nói vậy, bèn bơi đi không dám trở lại nữa.
Vị tu hành nói trên vào trong định phi phi tưởng, và ngày sau sanh lên tầng trời phi phi tưởng xứ, hưởng phước dài trong tám vạn đại kiếp. Khi hết phước, vị này đọa xuống kiếp súc sanh, làm thân chim biển (ngư ưng), ngày ngày bắt cá ăn để sống, thỏa được nguyện của mình. Tới lúc Ðức Phật Thích Ca thành đạo, nhân Ngài giảng pháp độ cho loài chim biển, vị đó mới được giải thoát. Ðời sau, vị này làm người, theo Phật xuất gia và chứng quả A-la-hán. Chiếu theo công án này, chúng ta thấy phàm người tu đạo phải tuyệt đối tránh tâm sân hận. Nếu không thận trọng, để tâm sân hận khởi lên, thì tương lai sẽ lãnh hậu quả. Chúng ta nên ghi nhớ để cảnh giác.
--- o0o ---
| Mục Lục | | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 |
--- o0o ---
| Thư Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Vi tính : Diệu Nga - Samuel
Trình bày : Mỹ Hạnh
--------------------------------------------------------------------------------
Webmaster:quangduc@quangduc.com Trở về Trang Phật Học Cơ Bản
Đầu trang
Biên tập nội dung: Tỳ kheo Thích Nguyên Tạng
Xin gởi bài mới và ý kiến đóng góp đến ban biên tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com
Cập nhật ngày: 01-04-2002
khai thị
Tiếng Việt Trang nhà Quảng Đức
Tiếng Anh
Phật Học Cơ Bản
--------------------------------------------------------------------------------
...... ... .
Khai Thị
Đại Sư Tuyên Hóa
Việt dịch: Ban Phiên Dịch Đại Học Pháp Giới,
Vạn Phật Thánh Thành
--- o0o ---
Phần 07
61. Cuộc Đời Như Mộng, Như Ảnh
62. Rốt Cuộc Đạo Là Thế Nào ?
63. Thượng Đức Bất Đức, Hạ Đức Chấp Đức
64. Bởi Đâu Không Tương Ưng Với Đạo?
65. Thần Thông Của Người Tại Sao Không Hiển Hiện ?
66. Kinh Lăng Nghiêm : Biểu Tượng Của Chánh Pháp
67. Tu Đạo Phải Đoạn Dục Khử Ái
68. Thiền Thất Khai Thị
69. Hãy Trở Về Quê Hương Của Chúng Ta
70. Một Trăm Ngày Thiền Thất
61. Cuộc Ðời Như Mộng, Như Ảnh [^]
Có một bài kệ tụng, rất hợp đạo lý, nay xin đọc ra để tham khảo:
Bất cầu đại đạo xuất mê đồ
Túng phụ hiền tài khởi trượng phu
Bách tuế quang âm thạch hỏa chước
Nhất sinh thân tự thủy bào phù
Thê tài phao hạ phi quân hữu
Tội nghiệt tương hình nan tự khi
Thí vấn đôi kim đẳng sơn nhạc
Vô thường mãi đắc bất lai hồ.
Bất cầu đại đạo xuất mê đồ (Chẳng cầu đại đạo để ra khỏi đường mê): Cuộc đời của chúng ta như mộng ảo, như bọt nước, như làn sương, như điện chớp, phải quán nó là như vậy. Mạng sống con người là vô thường, sự nghiệp vô thường, phú quý vô thường, cho nên "niềm vui là nhân của khổ." Tất cả khoái lạc trong thế giới này cũng đều hàm chứa cái khổ. Muốn lìa khổ để an vui, tất phải lo tu đạo. Tu đạo thì trước hết phải trừ tập khí. Trừ như thế nào? Bên trong thì khắc kỷ phục, bên ngoài thì đoạn dục khử ái, cả hai đàng cùng dụng công, ắt sẽ thành công.
Con người sanh ra bởi sắc dục, chết bởi sắc dục, đó là lẽ thường của thế tục, và thuận theo thế tục thì cứ sống đi chết lại không ngừng. Kẻ xuất gia thì đi ngược lại, có đi ngược mới thành thánh, nên cái gì hay với thế gian thì lại không hay với người xuất gia; người thế gian tham, chúng ta không tham; cái gì người thế gian yêu thích, chúng ta không yêu thích; cái gì người thế gian mê, chúng ta không mê. Muốn cầu đại đạo ắt phải ra khỏi đường mê.
Thế nào là đường mê? Chính vì vô minh tác quái nên bất cứ đi hướng nào cũng là hồ đồ, rút cuộc chẳng biết làm sao. Mê cũng là nghĩa mất phương hướng, con đường phải đi lại không nhận ra, mà đi lạc vào chỗ khác. Phải biết rằng chẳng cầu đạo thì chẳng ra khỏi đường mê. Muốn ra khỏi đường mê tất phải tu đạo.
Tu đạo cần phải có thiện tri thức chỉ điểm cho sáng mắt. Thiện tri thức biết cách thức dạy ta tu sao cho được dứt đường sanh tử, giúp ta không trở lại với cảnh luân hồi. Cái thấy và cái biết của thiện tri thức là chính xác, trong đó không có chút nào gọi là tà tri tà kiến.
Túng phụ hiền tài khởi trượng phu? (Ðể phụ cái tài trí thì đâu phải trượng phu?): Nếu chúng ta không cầu đạo, không ra khỏi đường mê, ắt là ta phụ cái hiền tài của ta, hiền tài cũng là cái trí huệ đức tướng của ta. Phật đã từng nói: "Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ đức tướng của Như-lai." Nếu quả chúng ta không tu hành, ắt ta chẳng thành tựu được gì. Như vậy chúng ta đã cô phụ cái trí hiền tài, tức đâu còn là kẻ trượng phu nữa?
Bách tuế quang âm thạch hỏa chước (Quang âm của trăm năm qua đi như lửa lóe ra - từ đá đánh lửa): Tỷ dụ có thể sống tới trăm năm thì ngày tháng cũng qua nhanh như tia lửa chớp, trong thoáng qua đã tắt.
Nhất sinh thân tự thủy bào phù (Một đời, thân xác giống như bọt nước): Từ lúc sanh ra cho đến lúc chết, gọi là một đời người. Thân thể này giống như một cái bọt trên mặt nước, nổi trôi bồng bềnh, thật là hư vọng chẳng có gì là thực chất, chỉ trong một sát-na đã thấy nó biến mất. Vậy thì lưu luyến nó làm gì? Hà tất chấp trước vào nó?
Thê tài phao hạ phi quân hữu (Tài sản và vợ bỏ lại, anh chẳng có gì): Tới khi lâm chung, dù anh có bao nhiêu tiền cũng không đổi được cái chết. Hết thảy nào vàng bạc, châu báu, anh đều bỏ lại, một đồng cũng không mang đi. Lúc đó, vợ và tài sản đều không còn là của anh, anh chỉ còn hai tay buông xuôi về chầu Diêm vương.
Tội nghiệt tương hình nan tự khi (Tội vạ đi theo như hình, không thể tự dối): Bất cứ loại nghiệp nào, sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, uống rượu, đều theo ta như hình với bóng, như câu nói: "Mọi thứ mang chẳng được, chỉ có nghiệp tùy thân." Nghiệp tội thì không thể dối gạt được, bởi chính ta tạo ra thì nhất định ta phải lãnh quả báo, chẳng ai có thể thay ta lãnh giùm.
Thí vấn đôi kim đẳng sơn nhạc (Thử hỏi vàng chất lên thành núi): Chất đầy vàng bạc, cao như núi, thành vua kim tiền, giầu bậc nhất thiên hạ, thử hỏi khi chết những thứ đó có ích gì? Ðể lại cho con cháu, thì con cháu nào hay, chúng chẳng cần tới, con cháu nào xấu thì lấy tiền tạo nghiệp xấu, còn nặng tội hơn.
Vô thường mãi đắc bất lai hồ (Liệu có mua được luật vô thường chăng?): Tuy vàng bạc chất lên cao bằng núi, nhưng liệu chúng ta có mua nổi quỷ vô thường không? Không thể mua được. Quỷ vô thường rất là công bình, không thiên lệch, không nói chuyện ân tình, cũng không nhận quà cáp.
Cảnh ngộ của người ta tại thế gian là như vậy. Chúng ta là người xuất gia, chính là vượt qua thói tục, không chịu để thói tục giam hãm. Nay lại không tu hành nghiêm chỉnh thì còn chờ tới lúc nào nữa? Phải nhớ rằng mục tiêu của kẻ xuất gia là dứt đường sanh tử, vượt qua luân hồi, chớ không thể sống như thế tục. Quý vị! "Tướng quân bất hạ mã, các tự bôn tiền trình," quý vị hãy ráng sức tu hành!
--------------------------------------------------------------------------------
62. Rốt Cuộc Ðạo Là Thế Nào ? [^]
Ðạo, rải ra thì trùm lục hợp, cuốn lại thì nó ẩn tàng. Ðạo lớn, không có gì ở ngoài nó và nhỏ thì không gì ở trong nó. Không có cá nhân nào mà không nằm trong đạo, không chúng sanh nào có thể chạy ra ngoài đạo. Ðạo chính là tánh mà tánh là bổn thể của chúng sanh. Phật nói: "Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật." Chẳng kể loại gì, thai sanh, noãn sanh, thấp sanh, hóa sanh, chim, cá, động vật, thực vật, trong bốn loài sanh trên hay trong chín pháp giới chúng sanh (tứ sanh cửu hữu), tất cả đều có đầy đủ đạo này.
Ðạo Ðức Kinh nói: "Thượng sĩ văn đạo, động nhi hành chi. Trung sĩ văn đạo, nhược tồn nhược vong. Hạ sĩ văn đạo, đại tiếu chi. Bất tiếu bất túc dĩ vi đạo." Lão tử nói về nghĩa đạo như vậy, nghiên cứu thấy nó thật là đến lý. Giải thích sơ lược như sau:
Thượng sĩ văn đạo, động nhi hành chi (Hàng thượng sĩ nghe đạo, cảm thấy và làm theo): Thượng sĩ là hạng người có trí huệ, hàng có thiện căn sâu dầy, hạng người thượng đẳng. Nghe đạo chính là nghe cách thức để tu hành đạo. Ðức Khổng-tử đã nói: "Triêu văn đạo, tịch tử khả hỹ," sớm nghe đạo, tối chết cũng được rồi, chẳng hận gì nữa. Tại sao? Bởi nghe đạo mà khai ngộ, mà thấu hiểu được đạo này, ai ai cũng có nó, không ai không có, không bao giờ lìa đạo. Chẳng qua, chúng ta quay lưng với đạo mà chạy, càng chạy càng xa đạo. Ðạo này là gì vậy? Chính là quy củ. Theo đúng quy củ mà đi, nghĩa là tu đạo. Không theo quy củ mà đi tức không phải tu đạo. Quy củ là gì? Ðó là giới luật. Y theo giới luật tu hành, chính là tu đạo.
Nói từ gốc rễ thì đạo là con đường dẫn tới liễu sanh thoát tử. Tu đạo là khép cánh cửa sanh tử. Cửa sanh tử là gì? Chính là dục niệm. Mang tâm dâm dục là mở cửa sanh tử, đoạn trừ tâm dâm dục là khép cửa sanh tử. Hạng người thượng đẳng khi nghe qua đạo này bèn nghĩ rằng: "?! Vốn nó là như vậy!" Do đó cảm thấy mà làm theo, để trở về nguồn cội, quay chiếu lại mình, xoay lưng với trần cảnh mà hướng về giác ngộ (bội trần hiệp giác), và dụng công tu đạo. Từ sáng đến tối ở đó tu hành, như tình trạng gà ấp trứng, như rồng nuôi ngọc, như mèo rình chuột, tập trung tinh thần để dụng công. Chỉ một lòng tu đạo, không còn vọng niệm gì khác.
Trung sĩ văn đạo, nhược tồn nhược vong (Hạng trung sĩ nghe đạo, lúc còn lúc mất): Ðây là bậc trung đẳng, cũng là hạng người bình thường. Ðầu óc loại này thì một nửa trí huệ, một nửa ngu si. Nghe xong đạo này thì tựa hồ nhớ được chút ít, cũng tựa hồ quên chút ít, tóm lại vừa đúng vừa sai, chẳng có gì là chắc chắn. Có khi họ chấp không, có khi chấp có, không dứt khoát.
Hạ sĩ văn đạo, đại tiếu chi. Bất tiếu bất túc dĩ vi đạo (Hạng hạ sĩ nghe đạo, bật cười lớn. Chẳng cười chẳng gọi là đạo): Hạ sĩ để chỉ hạng ngu si. Nếu chúng ta bảo họ trừ dục cắt ái là tu đạo, hay giữ quy củ là tu đạo, thì họ sẽ trả lời ngay: "Ấy! Vậy là ngốc quá! Các người tu hành đúng là ngu si hết mức, cớ gì mà không ham tiền tài, sắc đẹp, danh tiếng, ăn uống, ngủ nghỉ? Ðó là khoái lạc về ngũ dục, thú biết mấy!" Bởi vậy, nghe đạo thì họ bật cười, cho rằng tu đạo là ngu ngốc. Nếu họ không cười như vậy, thì không phải là đạo.
Hàng ngày tôi giảng kinh thuyết pháp cho các quý vị, điều khẩn yếu vẫn phải nhấn mạnh về đoạn trừ các niệm dâm. Kinh Lăng Nghiêm nói: "Lòng dâm không trừ, thì không ra khỏi cõi trần." Nhất định phải trừ các niệm về dâm dục, mới mong lìa khỏi cảnh hồng trần, cho nên có câu: "Lòng dâm không đoạn, nấu cát ra cơm, chẳng thể có việc này." Quý vị! Người tu hành không giống người trong thế tục. Cái gì người đời tham, ái, mê, thích thì chúng ta cần phải diệt trừ. Có câu nói: "Thoát trần ly tục," nghĩa là hết thảy các thứ từ lời nói đến tư tưởng, người tu và người tục không giống nhau. Ðiểm này quý vị phải chú ý, không thể bị nhiễm ô theo giòng thế tục.
Phàm những ai trú tại Vạn Phật Thánh Thành, quyết phải tu hành, phải giữ quy củ, phải trì giới luật. Người xuất gia không giữ quy củ và giới luật thì còn ý nghĩa gì nữa? Xuất gia và tại gia không giống nhau. Như đã xuất gia lại còn giữ tập quán của thế tục, thì xuất gia làm gì? Về điểm này cũng phải hiểu cho rõ.
Tại sao có thời mạt pháp? Bởi phước báo của người mỏng, nên không có thánh nhân ra đời, không có chánh pháp trụ thế. Tôi vốn không tự lượng sức mình, quyết một lòng giữ chánh pháp trụ thế, kiên trì không đổi, không chịu đầu hàng trước mọi hoàn cảnh. Kiên trì như vậy tốn hao công sức, nhưng đó là lòng quyết tâm của tôi. Bất kể gặp gian nan ra sao, tôi vẫn phải hoàn thành sứ mạng.
Quý vị! Quý vị đều là đệ tử theo tôi học đạo, nên hiểu rằng thời đại này là thời đại gì? Phải cố gắng thành người xuất gia gương mẫu, là người lãnh đạo siêu quần, không thể bị nhiễm ô theo thông tục, nếu không, kẻ xuất gia không thể ngóc đầu lên được.
--------------------------------------------------------------------------------
63.Thượng Ðức Bất Ðức, Hạ Ðức Chấp Ðức [^]
Cổ đức nói: "Thượng đức bất đức, hạ đức chấp đức, chấp trước chi đức, bất minh đạo đức." Nay xin giải nghĩa như sau:
Thượng đức bất đức: Thực hành đạo Bồ-tát, nhưng không chấp vào hình tích gì, làm việc thiện nhưng không ghi lại hình tích của hành động thiện. "Vi thiện tu đức," là chuyện tự nhiên, là bổn phận của mình, do đó không có gì làm cho mình thêm kiêu ngạo, thêm tự mãn. Không nên nói rằng: "Tôi làm điều phước đức, tôi làm điều thiện, tôi làm những việc hay," và ngay những ý nghĩ như vậy cũng không nên có nữa.
Người ta nói: "Thiện, mà muốn cho người ta thấy thì chẳng phải là chân thiện; ác mà muốn cho người ta không biết, là điều đại ác." Kẻ chân chánh thực hành Bồ-tát đạo thì làm việc gì cũng như không làm, hết thẩy mọi thứ đều không chấp trước. Bất cứ làm công đức gì, không có tâm chấp, không thừa nhận một công đức nào và đối với mọi người không hề có tâm kiêu ngạo hay tự mãn. Ðó là nghĩa của "thượng đức bất đức."
Người có trí huệ chân chánh, không nhận mình là người có trí huệ. Người có đạo đức chân chánh không thừa nhận mình có đạo đức. Người có học vấn chân chánh, không có tâm kiêu ngạo, không coi thường kẻ khác. Người tu trì một cách chân chánh, không sanh tâm tự mãn, tự mình tuyên truyền cho mình.
Hạ đức chấp đức: Một số phàm phu tục tử, làm được chút ích công đức đã cho là nhiều, đi đâu cũng quảng cáo việc mình làm, nào tôi làm điều thiện này, tôi làm công đức kia, đi đâu cũng nêu ra để lừa dối người, hy vọng người khác sẽ quý trọng mình.
Kẻ thượng đức, tuy làm công đức nhưng không chấp trước công đức. Kẻ hạ đức, tuy làm chút ít công đức lại chấp vào công đức, tới đâu cũng thừa dịp để tuyên truyền, nào tôi tạo nên cái chùa này, nào xây cái tháp kia, in kinh này, thuyết pháp như thế kia, tóm lại, nói hoài không hết công đức. Ðó là tác phong của kẻ hạ đức chấp đức.
Chấp trước chi đức: Nghĩa là chấp trước những việc, đại khái như: tôi bắc cái cầu trên sông này, tôi lát con đường kia v.v.
Bất minh đạo đức: Như trên là không có công đức. Người nào có những ý nghĩ như vậy tức là không thấu hiểu nghĩa thật của đạo đức.
Tự mình tuyên truyền cho mình, tự mình mừng cho mình, đây chính là vọng tâm tác quái. Có câu nói: "Chúng sanh không có chân tâm, vì có vọng tâm," vọng tâm chính là vọng tưởng. Một niệm động, thí dụ như niệm về sát sanh nổi lên, hay có một ý nghĩ về trộm cướp chẳng hạn, tức là vọng tưởng. Ðộng một niệm về dâm, về nói dối, về uống rượu, đều là vọng tưởng cả. Nói chung động niệm nổi lên là vọng tưởng. Vọng tưởng là chướng ngại đối với kẻ tu hành. Làm sao để vọng tưởng không nổi lên? Phải tham thiền, tụng kinh trì chú, tinh thần tập trung, trong tâm không có hai niệm, đó chính là cách canh giữ vọng niệm.
--------------------------------------------------------------------------------
64. Bởi Ðâu Không Tương Ưng Với Ðạo ? [^]
Tu hành lâu rồi mà vẫn không tương ưng với đạo là do nguyên nhân gì vậy? Là vì vọng tưởng tác quái. Nếu tâm còn vọng tưởng thì nó sẽ phá hoại giới, phá hoại định, phái hoại huệ. Tâm có vọng tưởng thì trì giới không kiên cố, tu định cũng không kiên cố, còn nói gì tới huệ. Vọng tưởng nổi lên thì tâm chạy ngay theo duyên, nhân đó mà chuyển theo với vạn vật. Sắc trần do mắt tiếp nhận, thanh âm do tai nghe được, hương do mũi nhận ra, vị do lưỡi nếm, xúc do thân đụng chạm, và pháp do ý nhận thức, tất cả những thứ này hợp lại tạo thành vạn vật. Nếu cứ trụ vào các cảnh giới của các thứ trên tức là chạy theo vạn vật, nên từ đó mà tâm tham cầu sẽ nổi lên.
Trước một sự việc gì mà chúng ta cảm thấy hoan hỷ trong tâm, thì lòng tham cầu sẽ phát sanh. Một khi có tham, tức sẽ nghĩ ra cách chiếm lấy. Chiếm được rồi vẫn chưa biết đủ, nên lòng tham vẫn còn nguyên. Lòng tham không có đáy, chẳng bao giờ chất đầy lòng tham, cho nên nói: "Dục vọng không có chỗ ngừng." Người tham tiền, khi đã có tiền rồi thì lại tham danh, có danh rồi, đến tham các thứ khác, tham nhà, tham xe hơi, tham máy bay, tham thuyền máy v.v.. tất cả đều do sự tham cầu. Cầu mà không được toại nguyện thì phiền não phát sanh.
Khi có phiền não thì bao nhiêu vọng tưởng ùn ùn kéo đến. Có vọng tưởng tức có sự ưu sầu, làm cho thân khổ, tâm khổ, bầy ra trước mắt nào những thứ tạp nhạp, những ý tưởng không thanh tịnh. Những quan hệ vừa kể dẫn tới tình trạng không hợp với đạo, không đưa tới sự dứt đường sanh tử, nên cứ quẩn quanh trong sáu nẻo luân hồi mà không nghĩ ra lối thoát. Càng luân chuyển nhiều thì càng đi xa hơn, lạc sâu vào biển khổ không rút chân ra được.
Bổn thể của tự tánh là đạo chân thường. Thế nào gọi là đạo chân thường? Nó là vô hình vô tướng, không hình tích cụ thể. Hiểu được như vậy thì có thể tới được đạo đó. Không hiểu như vậy thì mỗi ngày một đi xuống. Nếu lại giác ngộ đạo này thì trí huệ luôn luôn hiện tiền, tánh diệu chân như cũng hiện tiền, lúc đó gọi là tương ưng với đạo.
--------------------------------------------------------------------------------
65. Thần Thông Của Người Tại Sao Không Hiển Hiện ? [^]
Thần thông là gì? Có câu nói: "Diệu dụng khó lường là thần, tự tại vô ngại là thông." Thần thông là một lực tự tại, không bị ngăn ngại, không thể lường được, nó là cảnh giới thiên biến vạn hóa, chẳng thể nghĩ bàn. Thần thông từ đâu mà sanh ra? Nói đơn giản là người tu pháp tiểu thừa, chuyên tu tứ đế và quán thập nhị nhân duyên, khi đạt tới mức độ viên mãn thì lúc đó chứng được thần thông.
Thần thông của hàng La-hán và của hàng Bồ-tát có chỗ không giống nhau. Thần thông của La-hán có hạn định, chỉ biết được nhân duyên trong phạm vi tám vạn đại kiếp trở lại. Hơn nữa họ phải chú tâm quán sát mới thấy được. Thần thông của Bồ-tát thì không có giới hạn, có thể thấy được cả quốc độ của vi trần, vi trần trong quốc độ, các chư Phật trong vô lượng quốc độ (nhiều như vi trần) có thể nghe chư Phật ở khắp các quốc độ trùng trùng đang diễn nói pháp mầu; có thể biết hết thảy ý nghĩ của các chúng sanh trong vô số quốc độ nhiều như vi trần; có thể biết các nhân duyên ngoài phạm vị tám vạn đại kiếp, khỏi cần vào trong định, chỉ cần tâm khởi lên ý tưởng quan sát là đủ.
Quý vị Bồ-tát thực hành Bồ-tát đạo, khi nào công đức viên mãn sẽ có các loại thần thông trên. Nếu chúng ta phát Bồ-đề tâm, thực hành Bồ-tát đạo cũng có thể đạt được mức thần thông này. Chỉ cần tu đến chỗ viên mãn, chẳng cần phải mong cầu, vẫn có thần thông.
Khi có thần thông rồi, có phải Bồ-tát không nên hiển lộng thần thông chăng? Không phải vậy. Nếu Bồ-tát có thần thông, mà lại không hiển lộng thì thần thông đó dùng làm gì? Có khác gì một người có hạt châu quý, lại mang dấu nó đi trong áo, không biết nó là một của quý vô giá. Cam phận nghèo khổ, không có cơm ăn, không có áo mặc, không có chỗ trú, mà vẫn không biết đổi hạt châu đi lấy tiền độ nhật. Nếu có thần thông mà không xử dụng thì cũng giống như vậy đó.
Không có thần thông mà muốn xử dụng thần thông thì không được rồi. Cái đó có khác gì leo cây mà bắt cá, chỉ là mộng tưởng của kẻ si ngốc mà thôi. Tuy nhiên, nếu có thần thông thì phải tận dụng thần thông. Giáo hóa chúng sanh, lấy thần thông ra hiển lộng, làm tăng gia tin tưởng của chúng sanh, như vậy hiệu quả tăng gấp bội. Cái đó cũng gọi là dùng phương tiện thiện xảo. Quý vị nên chú ý điểm này! Ma cũng có thần thông, có thể khiến cho những ai ham cầu thần thông mà chưa đủ đạo lực, lạc vào tròng của chúng, để đến nỗi tiêu ma đạo nghiệp của mình rồi làm quyến thuộc cho ma vương. Về điểm này, xin quý vị đặc biệt lưu ý và không thể không cẩn thận.
Hiện nay có một số người thiếu hiểu biết, tín đồ của Phật giáo mà không am hiểu gì, thấy người ta nói làm sao thì nói theo làm vậy. Về yếu lý của Phật pháp thì họ tựa hồ biết mà chẳng biết, không biết đến ngọn nguồn, hễ chứng kiến thấy có người thị hiện thần thông liền kêu lên kinh ngạc rằng: "Vào thời mạt pháp, người ta không thể có thần thông như vậy!" Nói như vậy thì thật là quá ấu trĩ! Nói thẳng ra đó là cái nhân đọa địa ngục, đối với Phật pháp chẳng hiểu một tí gì. Quý vị hãy chú ý! Ðối với bất cứ sự việc gì hễ ta chưa biết cho rõ ngành ngọn, ta không nên phê phán bậy bạ, không thể tùy tiện quyết đoán nọ kia. Ði sai nhân quả thì phải đọa địa ngục.
Phật giáo có đạo lý chân chánh, có định luật bất biến từ ngàn xưa, có ngàn vạn lời vàng ngọc do chính đức Phật nói ra, phát xuất từ chính kinh nghiệm của Ngài, chớ không phải là thứ đạo lý dối mình dối người. Giáo lý do Phật nói ra là Kinh tạng, giáo lý do thân Ngài biểu hiện là Luật tạng, phần do các đệ tử của Phật chú giải là Luận tạng. Ba tạng và mười hai phần kinh là giáo lý của chân lý, ý nghĩa toàn là chân thực không ngoa.
Chân lý ở đâu thì mười phương chư Phật đều tới đó ủng hộ. Chân lý ở đâu thì mười phương chư Bồ-tát đến đó ủng hộ. Chân lý ở đâu thì thiên long bát bộ cũng đều tới để ủng hộ. Hiểu thấu chân lý mới là Phật giáo đồ chân chánh, không hiểu chân lý thì đó là Phật giáo đồ lầm lạc. Quý vị phải nhận cho rõ chân lý, phải phân biện cho rõ phải trái, chớ khá hồ đồ, ai nói ra sao thì tin làm vậy, điều đó không thể chấp nhận được.
Bồ-tát có các loại thần thông, và các Ngài dùng như thế nào? Nói chung, lấy thần thông làm phương tiện thiện xảo giáo hóa chúng sanh, khiến họ phát Bồ-đề tâm để không bị nhiễm ô theo giòng thế tục. Như nghe nói sao thì nói làm vậy, đó là kẻ hồ đồ, không những không nghiên cứu chân lý, mà còn chạy theo đường tà, nghe theo pháp tà, phỉ báng chánh pháp, những loại Phật giáo đồ đó thật đáng thương.
Hiện nay là thời mạt pháp, có rất nhiều pháp thân đại sĩ, dạo trên thuyền từ bi, tới thế giới Ta-bà để giáo hóa chúng sanh, khiến chúng sanh thức tỉnh, xa lìa tà tri tà kiến, và gần gũi với chánh tri chánh kiến. Phật nói pháp là chánh pháp, ma nói pháp là tà pháp. Y theo lời dạy để phụng hành, y theo pháp để tu hành, nghiêm trì giới luật, thực hành giới luật, đó là chánh pháp, còn ngược lại là tà pháp. Hễ điều gì đi ngược lại giới luật thì không làm; hợp với giới luật thì hết sức thi hành, đó là con đường của các Bồ-tát.
Tâm của Bồ-tát thì tuyệt đối không tự tư tự lợi, tuyệt đối không màng tới danh vọng. Bồ-tát với tâm bi tha thiết, ngọt ngào dỗ dành giáo hóa chúng sanh lìa khổ tới chỗ an vui. Bồ-tát lấy lợi ích chúng sanh làm khởi điểm, chớ không phải vì ý nghĩ lợi ích của riêng mình. Ðó là tinh thần Bồ-tát đạo. Bồ-tát hành đạo chẳng phải xuất phát từ cảm tình riêng mà do lòng từ bi, từ của Bồ-tát là vô duyên từ, bi là đồng thể đại bi, trong lòng tuyệt đối không có sự phân biệt. Bồ-tát độ hết thảy mọi chúng sanh, không ngại khó nhọc, không kể ngày đêm, ra tay cứu vớt chúng sanh ra khỏi biển khổ để được an vui. Bồ-tát coi việc độ chúng sanh là việc phải làm, thành ra Bồ-tát có thần thông.
Bồ-tát có thần thông, có thể hiển lộng, vậy cớ sao người ta không thể hiển lộng thần thông được? Ðây là một sự ngộ nhận. Người nào chỉ trích như vậy, trong lòng phải có một dụng tâm khác. Người ta muốn cho chánh pháp chẳng tồn tại, chẳng muốn cho quý vị siêu phàm trong hàng tín đồ Phật giáo tồn tại.
Hiện nay có một số tín đồ Phật giáo không có trí huệ, đi đến đâu cũng nói rằng thời mạt pháp này không nên hiển lộng thần thông, mà cũng không ai có thần thông mà hiển lộng. Vì cớ gì họ lại tuyên truyền như vậy? Bởi họ ngu si, không chịu dụng công tu hành, lại thường có tâm đố kyï. Họ chẳng có thần thông, bèn cho rằng người khác cũng không có thần thông. Chẳng những vậy, gặp những người có thần thông họ cũng không nhận ra. Bồ-tát nếu gặp tín đồ nào có chánh tri chánh kiến, lại đương dụng công tu hành, lúc đó mới hiển thần thông, để cho tín đồ thêm tín tâm, khiến cho họ nỗ lực tu đạo tới chỗ giải thoát.
Quý vị thiện tri thức! Có vị nào có thần thông, chẳng cứ ai, nếu hiển lộng được thần thông thì tôi rất hoan nghênh. Nếu quả nói như vậy là có tội, tôi xin một mình chịu tội, có bị đọa địa ngục tôi cũng cam lòng, một mình tôi chịu không dính dáng gì tới quý vị cả, quý vị khỏi lo. Chỉ ngại là quý vị chẳng có thần thông, không hiển lộng được. Còn như có thể biểu diễn thần thông ra, tôi xin hết lòng ủng hộ.
Thời mạt pháp rất cần có quý vị thật tâm tu đạo, rất cần quý vị khai ngộ, rất cần những người chứng quả. Sau khi chứng quả lại trở về dẫn dắt các bạn hữu duyên, hướng dẫn họ ra khỏi tam giới để tới cõi tinh độ Thường Tịch Quang, đó là kỳ vọng của tôi đặt vào các vị.
--------------------------------------------------------------------------------
66. Kinh Lăng Nghiêm: Biểu Tượng Của Chánh Pháp [^]
Các kinh điển của Phật giáo đều là trọng yếu cả. Kinh Lăng Nghiêm lại càng đặc biệt. Nơi nào có Kinh Lăng Nghiêm tức nơi đó có chánh pháp. Kinh Lăng Nghiêm mà không còn thì lúc đó là mạt pháp. Tín đồ Phật giáo chúng ta phải mang hết tâm trí, và mồ hôi nước mắt để ủng hộ bộ Kinh này.
Kinh Pháp Diệt Tận có nói: "Tới lúc mạt pháp, Kinh Lăng Nghiêm diệt đầu tiên, sau đến các Kinh khác." Nếu quả kinh Lăng Nghiêm không bị diệt, thì chánh pháp hiện tiền, cho nên Phật giáo đồ chúng ta quyết lấy mạng sống ra để hộ trì, lấy mồ hôi nước mắt để hộ trì, lấy chí nguyện để hộ trì kinh Lăng Nghiêm. Kinh Lăng nghiêm mà tồn tại mãi với thế gian, được phát huy rộng lớn, lưu thông tới tận từng hạt bụi vi trần, phổ biến khắp mọi nơi trên thế giới, và tới tận cùng hư không khắp các pháp giới, nếu được như vậy thì chánh pháp quả là sáng sủa rực rỡ.
Tại sao lại nói rằng Kinh Lăng Nghiệm diệt đầu tiên? Bởi Kinh này giảng đạo lý rất là chân thật. Thiên ma ngoại đạo chịu không nổi mới tìm đủ mọi cách để phá hoại Kinh, tiêu diệt cho được Kinh này. Trước hết, chúng rêu rao rằng Kinh Lăng Nghiêm không phải do chính kim ngôn của đức Phật nói ra, mà do người đời sau ngụy tạo, như vậy Kinh Lăng Nghiêm là Kinh giả, là ngụy Kinh. Ðó là những thủ đoạn xấu xa của bọn ngoại đạo, cốt dùng cưỡng từ đoạt lý để phá hoại Kinh Lăng Nghiêm.
Kinh Lăng Nghiêm là thân của Phật, là xá-lợi của Phật, là tháp miếu của Phật. Trong kinh Lăng Nghiêm có bốn loại giáo huấn thanh tịnh, có hai mươi lăm vị thánh thuật lại kinh nghiệm viên thông và có nói tới năm mươi cảnh giới ấm ma. Những pháp này có thể ví như cái kính chiếu yêu, khiến cho bàng môn ngoại đạo phải lộ hết nguyên hình, yêu ma quỷ quái hết chổ ẩn náu, do đó để tự vệ chúng phải rêu rao rằng Kinh Lăng Nghiêm là Kinh ngụy tạo, không nên tin theo.
Một số người khác, chẳng hiểu biết gì, không đủ trí huệ để phân biệt thật giả, ai nói sao thì nói theo làm vậy, cũng phụ họa với chúng mà bảo rằng Lăng Nghiêm không phải do Phật nói. Kinh Lăng Nghiêm nói về đạo nghĩa thì thật là chính xác, thật là hợp lý, nên yêu ma quỷ quái, cũng như hạng bàng môn tả đạo không còn chỗ ẩn náu, chúng phải dùng những thủ đoạn xấu xa như vậy để hòng phá hoại Kinh. Làm như vậy ắt phải đọa địa ngục.
Gần đây, một số học giả thiếu hiểu biết, rồi một số Phật giáo đồ ngu si, không nhận thức đúng về Phật giáo, không hiểu minh bạch về Phật học, tóm lại là biết nửa mùa, đem lời của thánh nhân ra để phê phán, rồi phát biểu một cách càn dỡ.
Người học Phật pháp nên hiểu thấu đáo nghĩa lý Kinh Lăng Nghiêm, để có thể đề xướng Kinh này ở khắp mọi nơi, tuyên dương, giải thích và hộ trì Kinh này, ngỏ hầu giữ cho chánh pháp trụ thế, cho tà pháp bị tiêu diệt. Ðó chính là trách nhiệm của tất cả Phật giáo đồ.
Ngày hôm nay tôi xin bảo đảm với tất cả quý vị rằng kinh Lăng Nghiêm là kinh chân chánh. Nếu quả không phải như vậy, tôi xin nguyện xuống địa ngục, bởi lý do tôi không có nhận định đúng về Phật pháp, lấy giả cho là thật, tôi xin cam lòng chịu quả báo đó. Như Lăng Nghiêm là Kinh thật, tôi còn phát nguyện rằng đời đời kiếp kiếp tôi sẽ hoằng dương pháp Lăng nghiêm, và tuyên giảng chân lý trong Lăng nghiêm. Quý vị thử nghĩ coi, nếu Kinh này không phải do Phật nói ra, thì ai có thể nói được một loại pháp chánh xác như vậy? Tôi hy vọng người nào đó phê phán Kinh Lăng Nghiêm và bảo nó là Kinh giả thì hãy mau mau sám hối, sửa lại sự sai trái của mình. Nếu không, ắt bị đọa địa ngục rút lưỡi. Tôi mong cầu những ai niệm Kinh Lăng Nghiêm, giảng Kinh Lăng Nghiêm, tuyên dương Kinh Lăng Nghiêm, lưu thông Kinh Lăng nghiêm, tất cả đều sớm thành Phật đạo.
--------------------------------------------------------------------------------
67. Tu Ðạo Phải Ðoạn Dục Khử Ái [^]
Tại sao chúng ta có phiền não? Bởi lòng tự tư (ích kỷ). Tại sao có tự tư? Bởi có dục tâm, mới tìm hết cách để giữ lấy nó, sợ nó đi mất. Nếu nó bị thương tổn thì sẽ phát ra nóng giận. Tại sao nóng giận? Chính là do vô minh và tình ái tác quái. Giả thử, không có vô minh, không có tình ái, thì tâm nóng giận sẽ chạy xa cả mười vạn tám ngàn dặm, muốn kiếm nó cũng kiếm không được.
Nếu có tình ái tất có tự tư. Có tâm tự tư rồi thì chẳng còn từ một thủ đoạn nào để tiến tới mục đích, thậm chí có thể hy sanh cả mạng sống mà không tiếc thân. Truy ra tận gốc là vì dục niệm. Nếu quả không có dục niệm, tất không có tâm tự tư. Không có tự tư thì không có phiền não.
Có phiền não, tất có sanh tử; nếu không có phiền não, thì không có sanh tử. Ý nghĩa này, ai ai cũng biết, có điều không thực hành mà thôi. Phải biết rằng, không có dục thì không có vô minh. Phá được vô minh thì pháp tánh hiển hiện. Chúng ta học Phật, đầu tiên là trừ vô minh, đoạn phiền não. Dụng công tới chỗ viên mãn thì chứng được giải thoát.
Tại sao chúng ta không có trí huệ? Bởi vì vô minh. Vô minh sanh ra dục, dục sanh ra tự tư, tự tư sanh ra phiền não. Tham cầu mà không được thì có phiền não, người đối với ta không tốt cũng là nguyên nhân của phiền não. Tại sao có phiền não ? Bởi có cái Ngã. Nếu quả là vô ngã, thì không có phiền não. Nếu có thể tới được chỗ không có vô minh, không có tự tư, thì phiền não sẽ biến mất. Quý vị tin hay không tin, cái lý nó là như vậy. Thiên kinh vạn điển, nói tới nói lui cũng chỉ có thế. Cho cái ngã không còn, phá cái vô minh, tiêu diệt cái dục, thì sẽ không có tự tư, không có phiền não, kiếm phiền não cũng không kiếm ra được. Tại sao? Bởi gốc gác của vấn đề đã được giải quyết.
Quý vị phải chú ý! Năm thứ dục, tài, sắc, danh, thực, thụy (ngủ), đều do vô minh và tình ái mang đến. Nếu như không có tình dục, ta sẽ thấy không có gì là trọng yếu. Bởi có tình dục nên mới cảm thấy cái này không tốt, cái kia cũng không tốt, cái gì cũng không đúng, đó chính là con quỷ tình dục nó tác quái. Nếu chúng ta hàng phục được quỷ tình dục này, thì chúng ta vào nhà của Như Lai một cách mau chóng, lên tòa Như Lai, mặc áo Như Lai và thuyết pháp Như Lai.
--------------------------------------------------------------------------------
68. Thiền Thất Khai Thị [^]
Thế nào là tự tại ?
"Quán-Tự-Tại Bồ-tát, hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách."
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đã giảng xong ngày thứ ba vừa qua. Hôm nay, nhân dịp khai mạc khóa Thiền thất mùa đông, tôi xin giảng cho đại chúng nghe câu mở đầu của Tâm Kinh, mà cũng là tinh yếu của Kinh này.
Bồ Tát Quán Tự Tại chính là Ngài Bồ Tát Quán Thế AÂm. Ngài chứng được nhĩ căn viên thông. Ngài chứng như thế nào? Ngài vốn tu pháp "Phản văn văn tự tánh, tánh thành vô thượng đạo." Nguyên do bởi Ngài biết cách lắng nghe trở lại cái tự tánh nên Ngài mới được tự tại.
Gọi là tự tại khi nào người ta tới được cảnh giới không người, không ta, không chúng sanh, và không thọ giả. Cảnh giới đó ở đâu? Nơi nào thì có tự tại? Nơi nào thì không có?
- địa vị các bậc thánh thì có tự tại, còn ở địa vị phàm phu thì không có tự tại. Tại sao vậy? Tại vì các vị Thánh không còn vướng vào bốn tướng, tướng nhân, tướng ngã, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, nên các vị thánh được tự tại. Phàm phu thì hãy còn vướng vào các tướng này, do đó mới không có tự tại.
Chúng ta là kẻ tu hành, như nếu không thực hiện được bốn không đối với các tướng đó, thì chẳng bao giờ có thể chứng được sự tự tại, và dứt khoát chúng ta phải quét trừ ba tâm và bốn tướng. Ba tâm là nói về tâm quá khứ, tâm hiện tại và tâm vị lai. Cả ba tâm đều bất khả đắc. Tâm quá khứ bất khả đắc! Tại sao lại chẳng thể nắm bắt được? Tại vì nó đã qua rồi, đâu còn nữa mà nắm bắt? Tâm hiện tại, thì khi ta vừa nói xong về cái tâm đó, nó đã trở thành quá khứ rồi, chẳng thể nắm bắt được nữa. Còn tâm vị lai, thì vì nó chưa tới, nên nó chưa hiện hữu, vậy làm sao nắm bắt được nó? Vậy là cả ba tâm đều chẳng thể nắm bắt. Rồi đối với bốn tướng, quý vị cũng thực hiện được bốn không, tức quý vị đã có thể quán tự tại.
Thiền thất cốt để làm gì? Ðể quán tự tại! Ai ai cũng phải quán tự tại. Ai có thể tự tại thì người đó quán tự tại. Ai chẳng tự tại thì người đó chẳng phải quán tự tại. Quán tự tại chẳng phải là của riêng của Bồ-tát Quán Thế AÂm, hết thẩy mọi chúng sanh đều có thể là Quán Tự Tại.
Chúng ta ngồi thiền là để quán sát mình có thể tự tại hay không. Nếu là tự tại quý vị sẽ soi thấu năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) đều không, tức là thực hành sâu xa bát-nhã ba-la-mật. Một khi thực hành sâu xa Bát-nhã ba-la-mật, quý vị mới có thể soi thấu năm uẩn đều không. Có như vậy quý vị mới vượt qua được mọi khổ ách. Mọi khổ ách đã vượt qua, lúc đó mới chứng đắc tự tại.
Nhân khóa Thiền thất 98 ngày tại Phật Giáo Giảng Ðường,
San Francisco (tiền thân của Kim-sơn Thánh Tự),
từ ngày 15 tháng 11 năm 1970 tới ngày 23 tháng 2 năm 1971.
--------------------------------------------------------------------------------
69. Hãy Trở Về Quê Hương Của Chúng Ta [^]
Chẳng riêng ngài Quán Thế AÂm với chúng ta là cùng một thể, mà cả chư Phật mười phương và chư vị Bồ-tát trong mười phương với chúng ta là cùng một thể. Tuy nhiên, chúng ta với chư Phật chẳng phải là một thể. Tại sao như vậy? Nghĩa này giống như đoạn sau đây trong kinh Pháp-Hoa:
"Có một anh chàng hết sức nghèo khó. Cha anh thì lại là một trưởng giả giầu có vô cùng. Nhưng anh đã bỏ nhà đi lưu lạc tha phương, và không nhận ra lối trở về quê quán, do đó, có một ngày, anh gặp cha anh mà không nhận ra đó là cha mình. Tại sao vậy? Bởi vì anh đã xa cha anh một thời gian quá lâu rồi đến nỗi khi gặp lại anh không biết đó là cha mình
Lý do chúng ta không hợp cùng một thể với chư Phật và chư Bồ-tát cũng giống như trường hợp anh chàng nghèo khổ không nhận ra cha của mình, như vừa kể. Chúng ta tu đạo, thay vì phải xa lìa mộng tưởng điên đảo, hướng tới Niết-bàn rốt ráo, chúng ta lại xa lìa pháp thân là cha mẹ chúng ta, rồi hướng ra ngoài lang thang ăn xin, để không tìm ra được lối trở về quê, thật là đáng thương biết bao!
Phải nhớ rằng chúng ta với Phật và Bồ-tát là người trong nhà, cho nên Phật mới nói: "Hết thảy chúng sanh, đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật." Nay chúng ta ra ngoài cam làm người nghèo khổ, quên cha mẹ, quên quê nhà, cha mẹ chúng ta là pháp thân, chính là Phật và Bồ-tát. Họ đều mong mỏi chúng ta mau sớm trở về quê nhà - nơi cõi tịnh độ Thường Tịch Quang.
Bây giờ chúng ta ngồi thiền - thiền cái gì? Chính là tìm lại cha mẹ pháp thân. Gọi là: "Bể khổ vô biên, hồi đầu thị ngạn," nghĩa là chỉ cần quay đầu lại là có thể trở về quê hương gốc cũ. Bởi ý nghĩa trở về quê quán nên mới có khóa thiền mùa đông 98 ngày này vậy.
--------------------------------------------------------------------------------
70. Một Trăm Ngày Thiền Thất [^]
Một khóa thiền kéo dài 98 ngày, ở một nước phương Tây này, tuy trong tương lai chưa hẳn là vô song, nhưng tính đến nay phải nói là chưa từng có. Chính là: chứng kiến một chuyện chưa từng thấy, nghe một chuyện chưa từng nghe! Mấy ngàn năm nay thực sự chưa hề có một cuộc tu tập nào khổ công như vậy! Sáng sớm, từ hai giờ đã bắt đầu ngồi thiền, xen vào giữa là một giờ nghỉ, cho đến đêm 12 giờ mới ngủ. Vậy là mỗi ngày dụng công trọn 21 tiếng đồng hồ. Bởi vậy mới nói là một khóa thiền chưa từng có.
Quý vị tham dự khóa thiền này, tất phải khảo nghiệm, cố gắng chịu đựng, để từ đầu thông suốt cho tới cuối, chớ không thể nửa chừng bỏ dở. Nếu không thì công phu bỏ ra sẽ thành uổng phí hết, chẳng được chút gì, lại cô phụ bao nhiêu tâm nguyện của mình lúc khởi thủy. Có câu nói: "Nếm mùi cực khổ trong cái khổ, mới trở thành kẻ thượng nhân." Có như thế mới là kẻ siêu việt trong hàng Phật tử chân chánh.
Khóa thiền thất này lại khiến cho tôi vui mừng vì có mấy vị Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni phát tâm "Dạ bất đảo đơn," nghĩa là tới giờ ngủ, họ không trở về phòng mà ngồi luôn tại ghế thiền nghỉ. Cách thức tu trì như thế thực quả tại Tây-phương chưa từng có. (Sách kỷ lục có ghi: Bây giờ tất cả các Pháp sư tại Vạn Phật Thành đều phát nguyện giữ đúng "mỗi ngày một bữa (ăn), đêm không ngã lưng" (Nhật trung Nhất thực, Dạ bất Ðảo đơn). Tinh thần như vậy thật đáng ngưỡng mộ.
Khi ở Hương-cảng, tôi đã từng tham dự mười tuần thiền thất. Trong khóa tu, có cả một vị Trưởng lão mang râu - Hòa-thượng Minh Quán, cũng có dự nữa. Ðó là một vị lão tu hành, còn tôi thì không. Chúng tôi cùng nhau ngồi đủ bẩy mươi ngày, kết quả giữa chúng tôi không ai hơn ai kém.
--- o0o ---
| Mục Lục | | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 |
--- o0o ---
| Thư Mục Tác Giả |
--- o0o ---
Vi tính : Diệu Nga - Samuel
Trình bày: Nhị Tường
--------------------------------------------------------------------------------
Webmaster:quangduc@quangduc.com Trở về Trang Phật Học Cơ Bản
Đầu trang
Biên tập nội dung: Tỳ kheo Thích Nguyên Tạng
Xin gởi bài mới và ý kiến đóng góp đến ban biên tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com
Cập nhật ngày: 01-03-2002
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)