Thứ Năm, 9 tháng 7, 2009

điều khổ hạnh.

Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối. Tịnh Bảo Nguyệt Thiên Tử, được môn giải thoát, thâm tâm hoan hỉ tu tất cả khổ hạnh. Vị Tịnh Bảo Nguyệt Thiên Tử hiểu nghĩa lý tu tất cả khổ hạnh. Từ trong thâm tâm hoan hỉ sự khổ hạnh, muốn tu pháp nầy, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc đựơc. Ðức Phật có mười vị đệ tử lớn, mỗi vị đều đắc được đệ nhất. Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp được đầu đà (khổ hạnh) đệ nhất, làm những việc người không thể làm, hành những việc người không thể hành, ăn cơm mà những người khác không thể ăn, mặc y mà những người khác không thể mặc. Tôn Giả tu mười hai điều khổ hạnh : 1. Ở chỗ vắng lặng. 2. Hoặc ở ngoài nghĩa địa. 3. Hoặc ở ngoài đồng. 4. Ngủ dưới gốc cây. 5. Ngồi không nằm. 6. Thường đi khất thực. 7. Ăn có thứ lớp. 8. Ngày ăn một bữa. 9. Ăn có tiết lượng. 10. Quá ngọ không uống nước. 11. Mặc y phấn tảo. 12. Chỉ có ba y. Ðó là những điều khổ hạnh. Phá phiền não hai mươi lăm cõi gọi là tịnh, phá nghiệp hai mươi lăm cõi gọi là ngã, phá chấp hai mươi lăm cõi gọi là lạc. Chẳng còn sinh tử hai mươi lăm cõi gọi là thường. Thường lạc ngã tịnh là bốn đức Niết Bàn. Phật nói pháp thế gian là : vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh, đó là pháp phương tiện. Phật nói pháp xuất thế là : thường, lạc, ngã, tịnh đó là pháp chân thật. Vô thường là chúng sinh, thường là pháp thân. Khổ là ngoại đạo, lạc là Niết Bàn. Vô ngã là sinh tử, ngã là Như Lai. Bất tịnh là hữu vi, tịnh là vô vi. Ví dụ : Trăng sáng là thường lạc ngã tịnh. Mây đen là vô thường khổ vô ngã bất tịnh. Pháp thế gian là mây đen che mặt trăng, không thấy ánh sáng. Pháp xuất thế giống như gió mát, thổi mây bay đi hết, thì lại thấy mặt trăng chiếu sáng. Phàm phu có bốn việc điên đảo : Lấy sinh diệt vô thường, chấp trước làm thường. Lấy hoặc nghiệp khổ chấp trước làm vui. Lấy duyên giả ngã chấp trước làm ngã. Lấy phiền não nhiễm ô, chấp trước làm tịnh, cho nên là chúng sinh. Chúng ta là người tu đạo, phải trừ khử vô minh , nếu trừ sạch vô minh thì chân tâm sáng tỏ, trí huệ hiện tiền, thấy rõ chân lý thì chẳng còn điên điên đảo nữa. "Quang minh tịnh khắp như hư không". Quang minh của Phật, thanh tịnh khắp như hư không, tơ hào chẳng nhiễm. "Bảo Nguyệt biết được phương tiện nầy". Tịnh Bảo Nguyệt Thiên Tử biết được phương tiện pháp môn nầy. Chúng sinh mù tối ngu si khổ Phật muốn cho họ sinh mắt tịnh Khiến cho khai mở đèn trí huệ Thiện Mục quán được pháp môn nầy. "Chúng sinh mù tối ngu si khổ". Mù là vô minh, tối là phiền não, ngu si là chấp trước. Ba thứ nầy khổ đặc biệt, nhưng những khổ nầy chẳng ai giác ngộ, giống như cá ở trong nước chẳng thấy nước, người ở trong khổ chẳng biết khổ, nhiễm khổ cho rằng vui. "Phật muốn cho họ sinh tịnh nhãn". Phật muốn cho tất cả chúng sinh đều sinh mắt trí huệ thanh tịnh. Có đại trí huệ rồi, thì sẽ phá được phiền não vô minh và chấp trước, tức là được giải thoát. "Khiến cho khai mở đèn trí huệ". Vì Phật muốn phá khổ mù tối ngu si của chúng sinh, cho nên vì chúng sinh khai mở đèn trí huệ, dạy tất cả chúng sinh phá vô minh, bỏ tà về chánh. "Thiện Mục quán được pháp môn nầy". Vị Thiện Mục Thiên Tử quán sát và đắc được môn giải thoát nầy. Ðấng Tự Tại phương tiện giải thoát Nếu ai thấy được mà cúng dường Khiến họ tu hành chứng đạo quả Trì Ðức Thiên Tử thấu môn nầy. "Ðấng tự tại phương tiện giải thoát". Giải thoát nghĩa là : chẳng còn mọi sự chấp trước. Không còn chấp trước mới thật sự tự tại. Không trói không buộc, không quái không ngại, không sầu không lo, không vui không giận, không bị gì ràng buộc, không bị vật chất lung lay, thì "vượt ra khỏi tam giới, không ở trong ngũ hành", như vậy mới hoàn toàn giải thoát. Nếu muốn được giải thoát thì tu đủ thứ phương tiện pháp môn, từ phương tiện pháp môn mà đạt đến tự tại, từ tự tại mới đạt được giải thoát. Chân chánh giải thoát thì chẳng có tướng giải thoát, chẳng có tính giải thoát, không thể nói giải thoát. Người hay nói thì chẳng phải là thật giải thoát, hơn nữa chẳng phải nói có tư tưởng thì nói tôi giải thoát rồi. Nhưng làm thế nào biết có giải thoát ? vậy vẫn chưa được giải thoát. Tại sao phải nói có giải thoát ? Giải thoát vốn là giải thoát. Tại sao phải nói tôi phải giải thoát ? Tôi phải đắc được giải thoát ? Vậy bạn đã vứt giải thoát rồi chăng ? hay là đã mất rồi chăng ? cho nên một số người không giữ quy cụ, cho rằng mình đắc được giải thoát (tự do), cho rằng muốn họ giữ quy cụ thì chẳng đắc được giải thoát. Thứ tư tưởng nầy khiến cho họ làm tự liễu hán, họ không biết đến người, người không biết đến họ. Do đó, "quan niệm", chẳng màng đến việc gì hết. Thật ra đại Bồ Tát thì hành Bồ Tát đạo, chuyên lo mọi việc. Di Ðà Phật tiếp dẫn chúng sinh về thế giới Cực Lạc, hoa sen hóa sinh, chẳng có thời giờ nghỉ ngơi, sao nói không thích lo việc thiên hạ ? Tổ thứ tư Ðạo Tín đại sư khoảng mười bốn tuổi thì đến núi Sùng Công lạy Tổ thứ ba là Tăng Xán. - Ðạo Tín đại sư nói :"Mong Hòa Thượng từ bi, chỉ dạy pháp môn giải thóat". - Tổ Tăng Xán nói : "Ai trói buộc ngươi" ? - Ngài Ðạo Tín nói : "Chẳng ai trói buộc". - Tổ Tăng Xán nói : "Cầu giải thoát để làm gì" ? Ngài Ðạo Tín nghe rồi bèn khai ngộ, ở lại hầu Tổ Tăng Xán bảy năm, sau được tâm ấn Cà sa làm Tổ thứ tư. "Nếu ai thấy được mà cúng dường". Ðấng tự tại phương tiện giải thoát tức là Phật. Nếu có ai thấy được Phật mà phát tâm cúng dường Phật. "Khiến họ tu hành chứng đạo quả". Hoàn toàn khiến cho chúng sinh cúng dường, tu đủ thứ pháp môn, chứng được quả vị. "Trì Ðức Thiên Tử thấu môn nầy". Vị Trì Ðức Thiên Tử minh bạch được phương tiện pháp môn nầy. Trong một pháp môn vô lượng môn Vô lượng ngàn kiếp nói như vậy Sở diễn pháp môn nghĩa rộng lớn Phổ Vận Quang Thiên ngộ môn nầy. "Trong một pháp môn vô lượng môn". Pháp của Phật nói là một làm lượng, vô lượng làm một. Một gốc tán làm vạn thù, vạn thù quy về một gốc. Cho nên mới nói : trong một pháp môn, diễn nói vô lượng pháp môn, vô lượng pháp môn, trở về một pháp môn. Ðó là cảnh giới trùng trùng vô tận, vô tận trùng trùng. "Vô lượng ngàn kiếp nói như vậy". Trong vô lượng trăm ngàn vạn kiếp, Phật đều nói pháp như thế. Nhưng thứ pháp nầy thủy chung cũng nói không hết. "Sở diễn pháp môn nghĩa rộng lớn". Pháp môn của Phật diễn nói là vô lượng vô biên, cho nên nghĩa lý rộng lớn, vô cùng tận. "Phổ Vận Quang Thiên ngộ môn nầy". Phổ Vận Quang Minh Thiên Tử thấy rõ cảnh giới nầy.

Không có nhận xét nào: