Niệm Phật hàng ngày trong thất niệm Phật là chúng ta gieo trồng chủng tử thành Phật. Mỗi tiếng niệm Phật là gieo trồng một chủng tử, mười tiếng niệm Phật là gieo trồng mười chủng tử. Nếu mỗi ngày quý vị niệm một triệu lần, quý vị dã gieo trồng một triệu chủng tử. Cứ niệm, đừng lo tâm tán loạn. - HT Tuyên Hóa
Thứ Ba, 7 tháng 7, 2009
Hạnh Phổ hiền
Một là lễ kính chư Phật.
Hai là xưng tán Như Lai.
Ba là rộng tu cúng dường.
Bốn là sám hối nghiệp chướng.
Năm là tùy hỷ công đức.
Sáu là thỉnh đức Phật chuyển pháp luân.
Bảy là thỉnh đức Phật ở lại nơi đời.
Tám là thường học theo đức Phật.
Chín là hằng thuận chúng sanh.
Mười là hồi hướng khắp tất cả.
"Phổ Hiền Bồ Tát khen ngợi công đức thù thắng của Như Lai xong": đây là câu để tiếp ý quyển trước. Phẩm này thuộc quyển thứ bốn mươi. Nửa phần sau quyển thứ ba mươi chín là bài kệ tụng rất dài của Phổ Hiền Bồ Tát ca ngợi công đức thù thắng của Như Lai. Chữ "Như Lai" ở đây chỉ chân tâm tự tánh của mỗi người chúng ta, công đức của chân tâm mỗi người chúng ta là vô lượng vô biên; lời ca tụng của Phổ Hiền Bồ Tát chỉ là một giọt nước trong biển cả đó thôi. Phổ Hiền Bồ Tát nói nhiều như vậy cũng nói không hết, mới chuyển đề tài, bảo cùng các Bồ Tát trong hội và Thiện Tài rằng:
"Công đức Như Lai giả sử mười phương hết thảy chư Phật trong các số kiếp như số cực vi trần trong bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát, diễn nói liên tục, cũng chẳng thể nói cùng tận".
Một câu nói của Phổ Hiền Bồ Tát đã vạch trần chỗ hay của việc thành Phật. Công đức của tự tánh chúng ta, mười phương hết thảy chư Phật trải vô lượng kiếp cùng xưng nói cũng chẳng thể nói hết được. Học Phật là
để minh tâm kiến tánh, kiến tánh bèn thành Phật; phải làm sao cho vô lượng vô biên công đức trong tự tánh chúng ta đều hiện tiền, đều hưởng được tác dụng của những công đức đó. Tự tánh khởi tác dụng thì có ích lợi gì? Khiến cho chúng ta ngay trong một đời này đạt được hạnh phúc, khoái lạc chân chánh, vĩnh viễn chẳng có phiền não, chẳng khởi vọng tưởng, gia đình mỹ mãn, sự nghiệp thuận lợi, xã hội yên ổn, tốt đẹp, thế giới hòa bình; những lợi ích nhỏ nhặt như thế đều có thể đạt được. Lợi ích lớn nhất là trường sanh bất lão, vĩnh viễn chẳng chết. Đấy đều là những lợi ích công đức sẵn có nơi tự tánh. Chẳng thể không học Phật pháp là do lý do này, vì thế nhất định phải nỗ lực tu học. Câu nói này của Phổ Hiền Bồ Tát khiến chúng ta nhận thức rõ: Công đức của tự tánh chẳng thể nghĩ bàn.
Phổ Hiền Bồ Tát lại bảo cùng chúng ta: Muốn chứng đắc công đức của tự tánh thì phải tu mười thứ hạnh nguyện rộng lớn, công đức của tự tánh mới hiện tiền viên mãn. Trong năm khoa mục Tịnh Tông Học Hội thực hành thì khoa mục cuối cùng là mười đại nguyện vương. Mười đại nguyện vương là tầng lầu thứ năm, là tột đỉnh viên mãn. Tầng thứ năm cất dựa trên tầng thứ tư; tầng thứ tư là Bồ Tát Lục Độ. Tầng thứ ba là Tam Học Giới - Định - Huệ. Tầng thứ hai là Lục Hòa Kính. Tầng thứ nhất là ba phước. Ba phước là cơ sở. Cứ y chiếu theo phương pháp này mà nỗ lực tu học thì ngay trong một đời sẽ đạt đến cảnh giới viên mãn.
1.1. Nguyện thứ nhất: Lễ kính chư Phật
Chánh kinh:
Thiện Tài bạch ngôn:
- Đại Thánh! Vân hà lễ kính, nãi chí hồi hướng?
Phổ Hiền Bồ Tát cáo Thiện Tài ngôn:
- Thiện nam tử! Ngôn lễ kính chư Phật giả: Sở hữu tận pháp giới, hư không giới, thập phương tam thế, nhất thiết Phật sát, cực vi trần số chư Phật Thế Tôn, ngã dĩ Phổ Hiền hạnh nguyện lực cố, thâm tâm tín giải, như đối mục tiền, tất dĩ thanh tịnh thân ngữ ý nghiệp, thường tu lễ kính. Nhất nhất Phật sở, giai hiện bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát cực vi trần số thân; nhất nhất thân biến lễ bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát cực vi trần số Phật.
Hư không giới tận, ngã lễ nãi tận. Dĩ hư không giới bất khả tận cố, ngã thử lễ kính vô hữu cùng tận. Như thị nãi chí chúng sanh giới tận, chúng sanh nghiệp tận, chúng sanh phiền não tận, ngã lễ nãi tận, nhi chúng sanh giới nãi chí phiền não vô hữu tận cố, ngã thử lễ kính vô hữu cùng tận. Niệm niệm tương tục, vô hữu gián đoạn. Thân ngữ ý nghiệp vô hữu bì yểm.
Thiện Tài bạch rằng:
- Thưa đại thánh! Thế nào là lễ kính cho đến hồi hướng?
Phổ Hiền Bồ Tát bảo Thiện Tài rằng:
- Này Thiện nam tử! Nói "lễ kính (16) chư Phật" là: [Đối với] chư Phật Thế Tôn nhiều như số cực vi trần trong tất cả hết thảy cõi Phật tột cùng pháp giới, hư không giới (17), mười phương ba đời, tôi do sức hạnh nguyện Phổ Hiền, thâm tâm tín giải (18), như đối trước mắt, đều dùng thân ngữ ý nghiệp thanh tịnh, thường tu tập sự lễ kính. Nơi mỗi một đức Phật, đều hiện thân như số cực vi trần trong bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, mỗi một thân lễ khắp chư Phật nhiều như số cực vi trần trong bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật.
Hư không có tận, sự lễ kính của tôi mới tận. Vì hư không chẳng thể tận nên sự lễ kính này của tôi chẳng có cùng tận. Như thế cho đến chúng sanh giới tận, chúng sanh nghiệp tận, chúng sanh phiền não tận, sự lễ kính của tôi mới tận. Nhưng chúng sanh giới cho đến phiền não chẳng có cùng tận, nên sự lễ kính này của tôi chẳng có cùng tận. Niệm niệm tiếp nối, chẳng hề gián đoạn. Thân ngữ ý nghiệp chẳng hề mệt chán).
Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng là hiếu kính; hiếu kính đến mức viên mãn rốt ráo là lễ kính chư Phật. Trong Đại Thừa Giới Kinh, đức Phật khai thị rõ ràng: "Hiếu thuận phụ mẫu, sư tăng, hiếu thuận với hết thảy chúng sanh. Hiếu gọi là Giới". Giới luật Đại Thừa tạo dựng trên cơ sở hiếu đạo. Chữ Hiếu thuộc loại Hội Ý: phía trên là chữ Lão, phía dưới là chữ Tử, ghép thành chữ Hiếu. Trong chữ Hiếu, các đời tương thông, đời chữ Lão và
đời chữ Tử cùng một thể. Một đời trên (Lão) còn có một đời trên nữa, quá khứ vô thỉ; một đời dưới lại có một đời dưới nữa, vị lai vô chung. Vô thỉ vô chung là một chỉnh thể. Nhìn theo chiều dọc, tổ tiên và con cháu đời sau là một thể; nhìn theo chiều ngang là anh em, thân thích, bè bạn; anh em của anh em, thân thích của thân thích, bè bạn của bè bạn, ngang khắp mười phương. Dọc suốt ba đời, ngang cùng mười phương là toàn thể của pháp giới. Chữ Hiếu là một phù hiệu tiêu biểu toàn thể pháp giới. Chỉ có thành Phật mới có thể tột cùng viên mãn đạo Hiếu.
Vì sao chúng ta phải học Phật? Vì chúng ta muốn viên mãn tột cùng đạo Hiếu, vì biết tận hư không, khắp pháp giới chỉ là chính mình mà thôi! Bởi thế, chính Phổ Hiền Bồ Tát tự nói: Muốn "lễ kính chư Phật" thì phải sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới mới có thể viên mãn được nguyện ấy. Phổ Hiền Bồ Tát là một nhân vật đại biểu cho những người vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới trong mười phương thế giới. Phổ Hiền Bồ Tát còn như thế, huống gì chúng ta? Chúng ta muốn viên mãn tột cùng đạo Hiếu, chỉ còn cách noi theo Phổ Hiền Bồ Tát; không noi theo Ngài mà toan thành Phật, chẳng có hy vọng gì đâu!
Trong kinh Phật dạy, từ Sơ Phát Tâm cho đến khi thành Phật là ba đại A Tăng Kỳ kiếp, trong quá khứ chúng ta đã tu cả vô lượng A Tăng Kỳ kiếp, cớ sao chẳng thành Phật? Là vì phiền não không đoạn, đời đời luân hồi lục đạo. Nhận thức Tịnh Độ từ kinh Hoa Nghiêm, chúng ta biết kinh Hoa Nghiêm cuối cùng là niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, vì thế ta mới hết một lòng khăng khắng niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, Phổ Hiền Bồ Tát độ chúng ta vậy.
Lễ kính chư Phật, chư Phật là ai? Phật dạy minh bạch: "Hết thảy chúng sanh vốn là Phật"; phàm các hiện tượng do các duyên hòa hợp mà sanh khởi thì gọi là "chúng sanh". Chúng ta nghĩ coi: Có pháp nào chẳng phải là do các duyên hòa hợp sanh ra hay không? Chỉ có hư không mới chẳng phải là do các duyên hòa hợp sanh ra. Thân thể của chúng ta, khăn mặt, giảng đường đều là do các duyên hòa hợp sanh ra, đều gọi là chúng sanh. Kinh Hoa Nghiêm có một câu rất trọng yếu như sau: "Tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí". Tình là hữu tình chúng sanh, chỉ động vật, hữu tình chúng sanh trong mười pháp giới. Vô Tình là vô tình chúng sanh, chỉ thực vật, khoáng vật. "Đồng viên chủng trí" là thành Phật. Hữu tình chúng sanh có thể tu hành, có thể niệm Phật, có thể thành Phật, còn vô tình chúng sanh làm sao thành Phật được? Khăn mặt, bàn ghế, khi nào chúng mới thành Phật?
Giờ đây nhờ phẩm Hạnh Nguyện này chúng ta mới vỡ lẽ: hữu tình chúng sanh là chư Phật, vô tình chúng sanh cũng là chư Phật. Khi nào vô tình thành Phật vậy? Y báo chuyển theo chánh báo. Ngày nào chúng ta thành Phật, liền nhận thấy sơn hà
đại địa, hết thảy cỏ cây, vi trần thảy đều thành Phật cả, đó là hiện tượng thành Phật. Nếu ngày nào tự thấy mình thành Phật, thấy người khác vẫn chưa thành Phật, thì nói thật ra, quý vị đang nằm mộng, quý vị khởi vọng tưởng, chắc chắn chẳng phải là thành Phật. Những điều kinh Hoa Nghiêm dạy hoàn toàn là cảnh giới hiện lượng của Phật, Bồ Tát, là những điều các Ngài chính mắt thấy, chính tai nghe, hoàn toàn là chân tướng sự thật, chẳng phải là cảnh giới của phàm phu.
Làm thế nào để học tập pháp môn này? Pháp môn ấy là pháp của Pháp Thân đại sĩ tu tập; chúng ta là phàm phu, một phẩm phiền não chưa đoạn, chúng ta có thể tu được chăng? Được chứ! Sách giáo khoa thuộc phân ban tiến sĩ trong nhà Phật, chúng ta là học trò mẫu giáo cũng áp dụng được, rất kỳ diệu! Kinh điển Phật giáo chẳng thể nghĩ bàn, là kinh điển viên dung. Sách giáo khoa cho kẻ sơ học chính là kinh điển để thành Phật, pháp môn bắt đầu từ việc học cung kính. Dùng tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm cung kính đối đãi hết thảy mọi người, đó là lễ kính chư Phật. Chúng ta đối với Phật, Bồ Tát cung kính phi thường, nhưng đối với người khác kém hơn một tí, thì chẳng phải là hạnh Phổ Hiền. Hạnh Phổ Hiền là hạnh bình đẳng.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét