Chủ Nhật, 28 tháng 9, 2008

Master Hsuan Hua

 
 
 
 
Làm người hay làm việc, mình phải giữ lòng tinh tấn. Tinh nghĩa là không tạp. Tấn nghĩa là không thối lui. Tinh thì chuyên tâm nhất niệm. Làm việc gì cũng cần chuyên tâm thì mới thành. Không có hai niệm tạp nhạp thì mới tiến bộ.
Posted by Picasa

Chủ Nhật, 21 tháng 9, 2008

A DI ĐÀ PHẬT ! CỨU KHỔ VÔ LƯỢNG: Nguyên Bảo

A DI ĐÀ PHẬT ! CỨU KHỔ VÔ LƯỢNG: Nguyên Bảo Làm người hay làm việc, mình phải giữ lòng tinh tấn. Tinh nghĩa là không tạp. Tấn nghĩa là không thối lui. Tinh thì chuyên tâm nhất niệm. Làm việc gì cũng cần chuyên tâm thì mới thành. Không có hai niệm tạp nhạp thì mới tiến bộ.

sao mình bị gạt

Làm người hay làm việc, mình phải giữ lòng tinh tấn. Tinh nghĩa là không tạp. Tấn nghĩa là không thối lui. Tinh thì chuyên tâm nhất niệm. Làm việc gì cũng cần chuyên tâm thì mới thành. Không có hai niệm tạp nhạp thì mới tiến bộ. Kinh Dịch dạy rằng: Khi người quân tử nhìn thấy cảnh tượng này, chàng ta liền phải gấp lo thu xếp công việc, đặt định mọi chuyện để phòng bị mưa rơi, do đó kinh nói người quân tử sắp đặt, sửa sang, trước khi tai họa hoặc sự việc xảy ra. Sau đây là một câu chuyện lịch sử nói về quẻ Truân: Ðời nhà Ðường, có vị lãnh chúa tên Châu Ôn (852-912 AD) ôm ấp ý đồ muốn làm hoàng đế nên đã công nhiên chống lại chính quyền địa phương đương thời là quan tri phủ Lý Khắc Dụng (856-924 AD) và thách thức cả vua Ðường Chiêu Tông (đương triều 889-903 AD). Thời ấy, dân cư trong vùng lân cận chịu đủ thứ gian nan, nhiễu nhương vì chinh chiến, đúng là thời đại của quẻ Truân. Bây giờ có một ngôi chùa nọ đang được trùng tu. Ngài Phương trượng đốc thúc việc xây cất đột nhiên bắt các nhân công phải bí mật xây hai tường hai vách, mà giữa vách thì chất đầy lương khô. Ngài lại cố ý cho xây thật nhiều trụ để chống đở trần nhà. Vì những trụ này không mấy cần thiết, nên các vị tăng khác thấy ngài làm vậy thì chế diễu, cho rằng ngài già rồi nên lẩm cẩm, thiếu minh mẫn. Mấy tháng sau, khi chùa xây xong thì nội chiến cũng bùng phát. Lính tráng và giặc giã nổi lên khắp nơi. Thương buôn phải đình trệ. Nông gia chẳng thể tiếp tục chăm sóc ruộng vườn yên ổn được. Thành phố, thôn quê, đâu đâu cũng bị cướp bóc và đốt cháy. Dân chúng khổ sở, mất mạng nhiều vô số. Ðến khi mùa đông rét buốt tới thì củi quý như vàng, gạo đắt như ngọc. Không ai muốn bán thóc lúa, cây trái, vốn là những thứ khó kiếm vô cùng lúc bấy giờ. Kẻ giàu, phú ông, bởi vì ham tiếc không chịu đổi chác ngọc ngà, tài sản nên rốt cuộc nhiều kẻ phải chết đói. Bấy giờ, trong lúc hỗn loạn ấy, vị phương trượng truyền dạy chư tăng từ từ chẻ mấy cái trụ dư thừa kia xuống làm củi, rồi lấy bớt lương khô ra mà ăn lần lần. Tất cả chúng tăng nhờ đó mà không chết đói, chết rét. Ai cũng tán thán trí huệ thực tế, nhìn xa thấy rộng của ngài phương trượng. Ðấy chính là do ngài thấy được thế sự đang ở trong thời quẻ Truân, và ngài biết áp dụng câu: Người quân tử sắp đặt, sửa sang. Nếu hiểu quẻ Truân trên phương diện tâm linh thì: Mây đen tụ lại, giăng bủa: tượng trưng cho vọng tưởng, thành kiến, chấp trước tích tập đầy dẫy. Sấm sét chớp nhoáng: tượng trưng cho cảm giác, phiền não, tức giận, âu lo, v.v.. Khi vọng tưởng và phiền não quá nhiều thì trước sau cũng sẽ dẫn tới hành động ngu muội, không hợp lý, không hợp giới luật; hệt như khi có mây đen, sấm sét thì trước sau trời cũng sẽ mưa. Kinh Dịch dạy: người quân tử sắp đặt, sửa sang tức là dạy người tu hành khi thấy và nhận biết được vọng tưởng, chấp trước và phiền não của mình thì phải mau mau phản tỉnh, sửa đổi chính mình. Sắp đặt, tức là phải suy nghĩ cho đúng với giới luật, với lý nhân quả. Sửa sang là sửa đổi thái độ, thói quen và quan niệm. Sửa sang có mấy thứ bậc: 1. Ở bậc thấp nhất: Một khi mây đã giăng, sét đã dậy, thì ta phải giữ gìn giới luật đối với lời ăn tiếng nói, kiểm soát hành động đừng để tổn hại kẻ khác. Nho giáo dạy: Phát, nhi giai trung tiết, vị chi hòa (tâm tình bộc phát nhưng giữa cho thăng bằng, trong vòng lễ độ thì gọi là hòa), hay là giữ tâm bình khí hòa. 2. Ở bậc cao hơn một chút: Quán sát nhân quả dòng vọng tưởng để phá trừ thành kiến và chấp trước; quán sát thực chất của mối phiền não để chấm dứt nó. 3. Ở bậc cao hơn nữa: Ðừng để mây đen kéo tới, đừng để sấm sét nổi lên. Nho giáo dạy: Hỉ, nộ, ai, lạc chi vị phát, vị chi trung (Khi vui, giận, buồn, sướng chưa phát ra thì gọi là trung). Phật dạy: Ðừng khởi tà kiến, chớ trụ tâm chấp trước, đừng sinh phiền não. Tu lòng từ bi hỉ xả. Một câu chuyện nói về quẻ Truân như sau: Có hai vợ chồng làm nghề buôn bán đã nhiều năm. Họ thường thường cứ bị những con buôn khác lường gạt hoài. Bực dọc, hai người mới lên than phiền với một vị thiền sư; họ nghĩ rằng họ đã phải làm gì bậy trong kiếp trước nên mới bị lường gạt trong kiếp này. Vị sư cười, hỏi rằng: Hãy khoan đổ thừa cho kiếp trước! Các con có bao giờ gạt ai chưa? Ngần ngừ một hồi, hai người mới nói: Dạ có, nhưng tụi con đã ngừng. Lâu lắm rồi, tụi con chẳng gạt gẫm ai. Sư hỏi tiếp: Thế con vẫn còn tính toán, tranh hơn, giành thắng? Họ đáp: Dạ, đương nhiên tụi con phải tính toán, mình phải tính lời chớ, thưa thầy. Sư hỏi: Thế con vẫn còn nói dối, nói lợi, nói đẹp cho mình? Họ đáp: Mình không tự quảng cáo thì ai mua hàng mình bán? Sư hỏi: Thế con có nói xấu, chê bai người buôn khác, chê bai hàng hóa họ bán? Họ đáp: Tụi con không nói toạc ra (rằng kẻ khác xấu) thì khách hàng cứ chạy đi mua chỗ khác, không mua hàng tụi con. Sư kết luận: Khi tâm các con tranh chấp, gạt gẫm, chê bai, giành giựt thì con sẽ chiêu cảm quả báo là những thứ lường gạt, đấu tranh. Việc làm của con tuy nói là buôn bán, thực sự chẳng khác gì chuyện đánh giặc. Làm sao con có thể yên vui, hòa bình, không bị lường gạt được. Câu chuyện trên đây cho thấy một khi trong tâm đã nuôi dưỡng quan niệm sai lầm, thành kiến, chấp trước, tranh chấp nội tại, thì quả báo đau khổ thật khó tránh. Ðức Phật tóm gọn quá trình khổ đau này trong ba giai đoạn: Khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ quả báo. Khởi hoặc tức là dấy khởi tà kiến, phiền não. Tạo nghiệp tức là có hành động và lời nói sai lầm. Thọ quả báo tức là chịu đau khổ, không được như ý mình. _________________ Nhẫn một tí, gió im sóng bặt, Lùi một bước, biển lặng trời trong. Photobucket

Hòa thượng Quảng Khâm

PDF In E-mail [Hòa Thượng Quảng Khâm] Hòa Thượng Quảng Khâm Hòa-Thượng Quảng-Khâm sinh vào đời nhà Thanh, năm Quang-Tự thứ 18 (1892). Ngài họ Hoàng, tên tục là Văn-Lai, quê ở Phúc-kiến, Trung-Hoa. Gia đình Ngài rất nghèo, đến độ anh ruột Ngài không có đủ tiền để cưới vợ. Năm Ngài bốn tuổi, vì không đủ sức nuôi dưỡng Ngài, cha mẹ Ngài phải đem Ngài bán làm con nuôi cho gia đình họ Lý ở Tấn-giang. Hai ông bà họ Lý là người rất tốt, cả đời sống bằng nghề trồng trọt. Họ thương yêu Ngài như con ruột vậy. Bà Lý là người tin Phật sâu xa, suốt đời trường trai. Bà thường đem Ngài lên chùa cầu nguyện bởi từ nhỏ Ngài thường bệnh hoạn, thân thể yếu ớt. Năm Ngài chín tuổi, bà Lý qua đời; hai năm sau dưỡng phụ Ngài cũng nối gót từ trần, khiến Ngài bỗng chốc trở thành cô nhi. Bấy giờ, bà con họ hàng ai nấy đều tranh dòm, chờ chực để chiếm đất đai ruộng vườn, tài sản của gia đình họ Lý để lại. Ðiều ấy khiến Ngài, một trẻ thơ, cảm nhận sâu xa mùi vị chua chát của thói đời và tánh vô thường của mọi sự. Trong đầu Ngài nảy sinh ý niệm thoát trần: Ngài đem hết của cải đất đai nhường lại cho bà con, rồi một mình tìm tới Chùa Thừa-Thiên ở Phúc-châu xin xuất gia. Bấy giờ, phương trượng Chùa Thừa-Thiên là Hòa-Thượng Chuyển-Trần, dạy Ngài quy-y, tu Khổ-hạnh với Thầy Thụy-Phương. Ngài được phân phối cho việc lao tác, trồng rau, nhổ cỏ....; đây là những việc công quả tập sự dành cho người muốn xuất gia. Ðến năm 19 tuổi, do nhiều nhân duyên đặc biệt, Ngài đã qua Nam-Dương. Ở đây, vì không có trình độ học vấn nên Ngài phải làm việc lao động chân tay. Một hôm, nhân cùng đồng bạn lên núi đốn củi, Ngài nói với bạn về trực giác linh cảm của mình rằng chiếc xe vận tải chở củi sẽ lật ở dốc núi, nhưng không ai tin. Không lâu, chiếc xe quả nhiên bị lật thật. Ðiều này khiến bạn Ngài ngạc nhiên, bảo rằng: "Có được trực giác như vậy sao anh không chịu tu hành, phát triển tâm linh, sau này độ thế?" Nghe qua, Ngài như chợt tỉnh, liền đáp thuyền về lại Trung-Hoa. Bấy giờ Ngài đã 35 tuổi, sau gần 16 năm sống ở Nam-Dương. Về lại Chùa Thừa-Thiên, Ngài chính thức xuống tóc, lạy Hòa-Thượng Thụy-Phương làm Thầỵ Pháp-danh của Ngài là Chiếu-Kính, tự Quảng-Khâm. Sau khi xuất gia, Ngài chuyên chú tu Khổ-hạnh, ăn những thức không ai thèm ăn, làm những việc không ai chịu làm, thường luôn ngồi Thiền, một lòng niệm Phật. Có một thời gian Ngài giữ trách nhiệm Hương-đăng (thắp nhang, quét tước điện Phật) và đánh bảng thức chúng mỗi sáng. Nhiều lần Ngài ngủ say quá nên trễ nãi việc đánh bảng. Ðiều này khiến Ngài vô cùng hổ thẹn, sám hối sâu xa trong lòng, rồi từ đó lập chí ngủ ngồi. Năm 1933, sau sáu năm làm Sa-di tu Khổ-hạnh, bấy giờ Ngài mới đi cầu thọ giới Tỳ-khưu nơi Hoà-Thượng Diệu-Nghĩa, Chùa từ-Thọ, Phủ-điền. Thọ Giới rồi, Ngài liền xin phép Phương-Trượng Chuyển-Trần đi ẩn tu; lúc ấy Ngài vừa đúng 42 tuổi. Bấy giờ, một thân một mình, với ít áo quần và hơn 10 ký gạo. Ngài nhắm núi Thanh-lương, tỉnh Tuyền-châu, tiến bước. Nơi ấy, ở giữa sườn núi, Ngài tìm thấy một thạch động đủ rộng để an thân tu Ðạo. Ðộng này vốn là nơi mãnh hổ thường lui tới; thế nhưng khi gặp hổ, Ngài chẳng hãi sợ. Ngài bảo cho chúng biết ý định muốn dùng động này để tu hành và khuyên chúng hãy tìm nơi khác. Lạ thay, hổ như hiểu ý Ngài, rõ lời người. Ngài lại vì hổ mà thuyết Tam Quy-y; hổ nghe rồi vẫy đuôi đi mất. Không lâu sau, hổ ấy đem bầy hổ lại: nào hổ mẹ, hổ con... đùa giỡn, gần gũi với Ngài như gia súc vậy. Bởi thế, sau này người dân quanh đấy gọi Ngài là Phục Hổ Hòa-Thượng. Bấy giờ, Hòa-Thượng ở sơn động ngày ngày tọa Thiền, niệm Phật; chẳng bao lâu lương thực cạn sạch, Ngài bèn hái trái cây rừng để ăn. Trong núi, ngoài hổ còn có khỉ, vượn. Bọn ấy, lạ thay, thường hay đến động; chúng lại đem cả hoa quả cây trái lại cúng dường Ngài nữa! Hòa-Thượng thường hay nhập Ðịnh. Có lần Ngài nhập Ðịnh đến vài tháng, không ăn uống, không động đậy thân thể; thậm chí hơi thở dường như dứt tuyệt. Có người gần đấy thấy vậy thì lầm tưởng rằng Ngài đã viên tịch, nên tức tốc cấp báo với Hòa-Thượng Chuyển-Trần để lo việc hỏa táng. May thay, lúc ấy có vị cao-tăng là Ðại-Sư Hoằng-Nhất đang ở chùa gần đấy, nghe được tin trên bèn cùng Hòa-Thượng Chuyển-Trần lên núi xem hư thực. Tới nơi, Ðại-Sư Hoằng-Nhất biết Ngài đang nhập Ðịnh, liền gõ ba tiếng khánh, đánh thức Ngài dậy từ trạng thái Thiền-định. Tin Ngài nhập Ðịnh lan truyền khắp nơi khiến ai ai cũng tán thán. Tháng ngày qua như tên bắn, thấm thoát Hòa-Thượng đã ở trên núi Thanh-lương được 13 năm. Bấy giờ Ngài, đã 54 tuổi (1945), trở về Chùa Thừa-Thiên. Hai năm sau, 1947, Ngài rời Ðại-lục, đáp thuyền tới Ðài-loan. Ở đây, bắt đầu quãng đời hoằng Pháp của Ngài: - 1948, Ngài xây một ngôi chùa nhỏ ở Ðài-bắc, tên là Quảng-Minh Tự. - 1951, xây Quảng-Chiếu Tự. - 1952, Ngài tìm thấy một thạch động ở núi Thành-phước rất đặc biệt: khi mặt trời và mặt trăng mới mọc thì ánh sáng chiếu thẳng vào cửa động. Bởi thế, Ngài đặt tên là Nhật-Nguyệt Ðộng và quyết định ở đấy ẩn tu. Nơi ấy xưa nay vốn không có nước, song từ khi Ngài vào ở bỗng có một suối nước mát tự nhiên vọt lên kế bên. Trên đỉnh núi ấy, Ngài dựng một chòi tranh để ở. Một đêm nọ, có con trăn khổng lồ bò lại chòi tranh cầu Pháp; Ngài liền vì nó thuyết Pháp và truyền Tam Quy-y. - 1955, tín đồ ở Ðài-bắc cúng dường Ngài một cuộc đất do hỏa sơn tạo nên; Ngài bèn xây Thừa-Thiên Tự ở đó. - 1963, Ngài hưng kiến Tường-Ðức Tự; xây Quảng-Long Tự ở núi Long-tỉnh. Ðến năm 1964, Ngài đã ở Ðài-loan được 17 năm. Trong suốt thời gian ấy, Ngài đã nhập định ba lần và mỗi lần lâu hơn cả tháng. Hằng ngày, Ngài chỉ ăn một bữa và chỉ ăn trái cây; Ngài không ăn đồ nấu nướng hay chiên xào gì cả. Vì vậy, tín đồ gọi Ngài là Thủy-Quả Hòa-thượng - Ông Thầy Ăn Trái Cây - Trừ khi trời mưa, thường thì mỗi đêm Ngài đều ngồi tọa Thiền cho tới sáng ở ngoài vườn hay trong rừng, chứ không ngủ trong phòng như kẻ khác. Ðấy là những công hạnh đặc biệt của Ngài. Năm Ngài 80 tuổi, có lần Ngài biểu thị cho Ðại-chúng biết ý định "Xả Báo" - nhập Ðịnh - của Ngài. Lúc ấy các đệ tử vô cùng khẩn thiết, cầu xin Ngài tiếp tục từ bi trụ thế. Bấy giờ Ngài vì tùy thuận chúng sanh nên trì hoãn việc nhập Ðịnh, tiếp tục công cuộc độ sinh. Từ ấy Ngài đi Nam-đầu, Ðài-trung, Gia-nghĩa, Hoa-liên, v.v... hoằng Pháp độ chúng. Ðến năm 84 tuổi, Ngài bắt đầu cấm túc, ở luôn tại chùa Thừa-Thiên trên núi Thanh-lương không còn xuống núi nữa. Công cuộc xây chùa vẫn tiếp tục, song do các đại đệ tử của Ngài chủ động: trùng tu Chùa Thừa-Thiên, xây Quảng-Thừa Nham (1974), Diệu-Thông Tự (1982). Năm Ngài 94 tuổi (1985), Ngài chủ trì Tam Ðàn Ðại Giới, truyền giới cho hơn 2.500 vị Tăng, Ni và cư sĩ; tạo thành một Pháp-Hội trang nghiêm vĩ đại nhất ở Ðài-loan lúc bấy giờ. Bấy giờ tuy đã gần kề trăm tuổi, Ngài vẫn sống rất đơn giản, đạm bạc; lời nói của Ngài bình dị, khiêm nhường; bước đi của Ngài vẫn vững chãi, không cần dùng tới gậy chống, không nhờ người đỡ taỵ Nếu ai gặp Ngài lúc ấy sẽ thấy thân Ngài vô cùng nhẹ nhàng, linh hoạt; động tác thanh thoát. Ngài vẫn y nhiên ngủ ngồi, không nằm; và vẫn ngồi ngoài vườn lộ thiên tĩnh tọa mỗi đêm. Bấy giờ thức ăn trái cây của Ngài phải được nghiền thành chất lỏng để dễ ăn. Cuối năm 1985, Ngài trở về Chùa Thừa-Thiên. Ngài thị hiện có bệnh; cự tuyệt mọi thứ ẩm thực, thuốc men; cũng không tiếp kiến tín đồ. Ngày Tết Nguyên-đán năm ấy, 1986, Ngài triệu tập tất cả đệ tử ở các chùa và tu viện khắp nơi lại để phú chúc, phân phối hậu sự. Ngài chỉ bảo việc hỏa táng, phân chia linh cốt tại Thừa-Thiên Tự, Quảng-Thừa Nham, và Diệu-Thông Tự, đồng thời trả lời mọi nghi vấn của tín chúng. Sáng ấy, sau giờ thọ trai, Ngài quyết định xuống Diệu-Thông Tự ở Cao-hùng. Hôm sau, mồng hai Tết, khí lực của Ngài vô cùng suy nhược. Mồng ba Tết, thể lực của Ngài bình phục. Ngài cùng đại chúng lên điện niệm Phật. Ngài lại nói chuyện một cách thong dong tự tại với các tín đồ đệ tử; tinh thần vô cùng sáng suốt và lạc quan như không có chuyện gì xảy ra. Sáng mồng bốn Tết, Ngài gọi tất cả đệ tử cùng Ngài ra bên ngoài điện đón nắng. Ngài nói với một đệ tử, Thầy Truyền-Văn, rằng: "Ngươi được rồi đấy; song bọn họ - đại chúng - còn chưa xong đâu!" Mồng năm Tết (ngày 13 tháng 2 năm 1986), Ngài ngồi xếp bằng yên định, tinh thần hòa hoãn, chẳng chút xao động; rồi dạy các đệ tử đồng thanh niệm Phật. Vào hai giờ chiều hôm ấy, Ngài bảo đại-chúng: "Vô lai vô khứ, một hữu sự!" (chẳng đến chẳng đi, chẳng việc gì); rồi nhìn đại-chúng gật đầu, mỉm cười. Không lâu sau, đại chúng thấy Ngài ngồi yên bất động liền đến bên quan sát kỹ, mới hay Ngài đã an nhiên theo tiếng niệm Phật, viên tịch rồi. Nhìn lại cả đời Ngài, xuất thân tuy nghèo khổ song bản tánh tự an, ngay thật, bình dị; đến khi xuất gia, Ngài thật sự buông bỏ vạn sự, chân thành ẩn tu, thực hành đủ thứ khổ-hạnh gian khó. Bởi nhân địa chân thật như vậy, nên kết quả là cảm ứng bất khả tư nghị - sau khi xuống núi, tới Ðài-loan hoằng dương Phật Pháp, Ngài đã tiếp độ không biết bao nhiêu chúng sanh, từ người đến thú, từ dương giới đến âm giới, từ hữu tình đến vô tình... Và, nhất là sự viên-tịch vô cùng tự do tự tại của Ngài - một minh chứng hùng hồn nhất về sự diệu kỳ của Phật Pháp, cũng như về khả năng thành tựu sự giải thoát, đạt Ðạo của những bậc chân tu, thật hành. Thầm nguyện Hòa-Thượng sẽ không xả bỏ đại nguyện, tiếp tục chèo thuyền từ bi trở lại cõi này để không ngừng đưa lớp lớp chúng sanh tới bờ bên kia, đến nơi an ổn, vô úy, vô ưu não! Theo: Cẩm Nang Tu Đạo

Nguyên Bảo

Photobucket Photobucket Photobucket Photobucket Photobucket Photobucket Photobucket Photobucket

Thứ Ba, 16 tháng 9, 2008

Nghệ thuật sống (15)

Lời thiện tri thức như nắng trời xuân Sanh trưởng tất cả căn mầm thiện pháp Lời thiện tri thức như ánh trăng rằm Vật gì được chiếu đều được thanh lương Lời thiện tri thức như núi tuyết hè Làm vơi cầm thú khát khao nỗi niềm Lời thiện tri thức: nắng dọi ao thơm Nở khai tất cả hoa sen tâm lành. Kinh Hoa Nghiêm Con đường Tu Hành [b]Tu hành là làm việc vô sự; chẳng nên có lòng tham, chẳng nên nghĩ tôi phải thế này, thế nọ, như: "Tôi muốn khai ngộ. Tôi muốn đắc thần-thông..." Làm sao có thể lẹ như vậy chứ? Khi hạt nhân được trồng xuống đất, bạn phải chờ nó lớn lên từ từ. Khi đến thời điểm, tự nhiên nó chín muồi![/b] Phải xem chuyện [b]tu hành là bổn phận cá nhân. Không cần phải tham lam, dần dần, công đức tự nhiên sẽ viên mãn, quả Bồ-đề cũng sẽ thành tựu.[/b] Chuyện tu hành đáng lẽ thành công rồi; song, vì bạn tham lam nhiều thứ cho nên kết quả là không "tiêu hóa" được. Ăn cơm thì phải đút từng miếng một vô miệng; nếu đem cả tô cơm mà dồn hết vô miệng, thì đầy cứng, làm sao nhai được? Nhai không đặng mà nuốt cũng chẳng xong[b]! Ăn cơm là một thí dụ hết sức đơn giản để nói lên vấn đề "tham nhiều thì nhai không nổi" vậy![/b] Người tu Ðạo, trước tiên phải đừng ích kỷ. Như vậy, chẳng những bảo vệ chính mình mà còn lợi ích cho toàn thế giới. [b]Hãy gạt bỏ chính mình ra ngoài, vất đi. Ðừng nghĩ rằng: "Tôi hay, tôi giỏi như thế này, thế nọ..."; mà phải nhìn toàn bộ đại cuộc. [/b] Kẻ tu Ðạo lúc nào cũng[b] phải treo giữa đôi mày "câu hỏi sanh tử." Lúc nào cũng phải muốn được liễu sanh thoát tử. [/b] Mỗi cử chỉ, mỗi hành động của [b]chúng sanh trong cõi Ta-bà đều là tham, sân, si. [/b] Ðối với Pháp Thế-gian, chúng sanh dùng tâm "tham, sân, si" để hành sự. Ðến khi tu, hành Pháp Xuất Thế-gian thì chúng sanh lại cũng [b]dùng tâm "tham, sân, si" này để tu. Khi tu, thì cứ tham khai ngộ mới ngồi Thiền chỉ có hai ngày rưỡi đã muốn ngộ rồi, tu hành chưa tới ba ngày là đã muốn thần-thông, niệm Phật mới mấy bữa mà đã muốn đắc Niệm Phật Tam-muội! Các bạn xem, đúng là "lòng tham không đáy" ớđó đều là biểu hiện của quỷ tham lam![/b] Tu Ðạo mà chẳng biết sửa đổi lỗi lầm thì cũng như chẳng tu. Học Phật mà không biết lỗi, không chừa tội thì chẳng khác gì không học Phật! Có câu rằng: Tu hành nay tuổi năm mươi, Mới hay bốn chín năm qua đều lầm! Những[b] ai có cảm giác hoặc nhận biết được các chuyện sai lầm, tội lỗi mà họ đã gây khi xưa, đều là những người có trí huệ; tương lai họ sẽ có tiền đồ sáng sủa vô biên. [/b] Người nào chẳng biết được những điều sai trái mình đã phạm trước kia, thì người ấy sẽ chỉ hồ đồ, mê muội suốt đời. Cứ mưu đồ hư danh giả dối thì suốt đời sẽ bị "bụi trần" làm cho mê hoặc, mờ mịt. Những kẻ như vậy thật đáng thương thay! Người xuất gia tu Ðạo cần phải phát nguyện.[b] Phát nguyện là tinh tấn tu Ðạo. Phát nguyện là cảnh giác chính mình sửa đổi lỗi lầm, hướng về việc lành. Tu Ðạo mà không phát nguyện thì cũng như cây đơm hoa mà chẳng kết trái vậy! [/b] Nếu đã [b]phát nguyện rồi thì tốt nhất là hằng ngày phải đọc lại những lời nguyện ấy, bởi "ôn cố nhi tri tân" ôn chuyện cũ thì sẽ hiểu chuyện mới. Phải xem mình có nhớ là chính mình đã từng phát nguyện gì, cần phải làm những việc gì hay chăng.[/b] Như vậy thì nguyện đã phát mới không trở thành trống rỗng, mà mình cũng chẳng lừa dối mình và lừa dối người, và cũng chẳng quên mất những nguyện mình đã lập. Ðôi khi các bạn nghĩ rằng mình làm chuyện tốt, kỳ thật, không nhất định là tốt. Vì sao? Vì nhân trồng không thanh tịnh![b] Hễ bạn dùng lòng tham lam mà làm việc, thì đó gọi là "trồng nhân bất tịnh." Bạn dùng tâm háo thắng mà làm việc, thì đó cũng là "trồng nhân bất tịnh." [/b] Vậy thì phải làm sao? [b]Phải làm chuyện vô sự ! Làm việc gì cũng phải coi đó là bổn phận của mình, chẳng nên hướng tâm ra ngoài mà truy cầu, chẳng nên cầu cạnh, mong mỏi gì cả![/b] Ðã có vọng tưởng, phải làm sao bây giờ? Quét sạch chúng đi! Bằng cách nào? Dùng Thiền Ðịnh! Công phu của Thiền Ðịnh có thể quét sạch vọng-tưởng. Khi [b]tu Thiền-Ðịnh, phải dùng tinh-tấn, nhẫn-nhục lại trợ giúp. Sau đó lại phải bố-thí, trì Giới. Như vậy thì công việc sẽ được hoàn thành.[/b] Sau khi sám hối, phải lập thệ nguyện: [b]Tất cả mọi sự khi xưa, Xem như đã chết theo ngày hôm qua. Mọi sự từ đây về sau, Bắt đầu cuộc sống của ngày hôm nay.[/b] Về [b]sau tuyệt đối không tái phạm, như thế mới tiêu trừ hết nghiệp chướng.[/b] Trong lúc tu hành phải luôn nghĩ đến vấn đề sanh, tử, và xem tất cả ma quái là các vị Hộ Pháp đến giúp ta tu Ðạo.[b] Có người chửi rủa, đánh đập ta họ chính là giúp ta tu Ðạo. Có người nói chuyện thị phi về ta, gây rắc rối cho ta đó cũng là giúp ta tu Ðạo. [/b] Nói tóm lại, điều[b] nghịch ý đến thì hãy thuận theo nó mà nhẫn chịu. Hãy xem nó như là bạn tốt lại giúp ta tu Ðạo; như vậy thì sẽ không có phiền não. Không có phiền não thì trí huệ sẽ nảy sanh. Hễ có được trí huệ chân chánh, thì bấy giờ không ma quái nào có thể làm tâm ta giao động đặng.[/b] Người tu Ðạo phải thanh tịnh, trong sạch như con mắt vậy.[b] Mắt không thể dung chứa một hạt cát nào cả. Bởi hễ trong mắt mà có cát, ắt bạn sẽ cảm thấy xốn xang, khó chịu, quyết phải tìm cách lấy nó ra, nếu không thì thân tâm chẳng an ổn đặng. [/b]Việc tu hành cũng y như thế! "Hạt cát" ám chỉ cái gì? [b]Chính là tâm tham. Hễ có tâm tham thì mọi việc đều biến đổi. Xưa nay mình vốn thanh tịnh; song, khi ý niệm tham lam dấy khởi, thì tác dụng hóa-học lập tức phát sinh, nước trong vắt trở thành vẩn đục.[/b] Bấy giờ, nước ấy chẳng làm lợi cho ai, chỉ làm hại chính mình thôi! Chúng ta tu Ðạo, mục đích chủ yếu là để "liễu thoát sanh tử," chứ chẳng phải để cầu cảm ứng. Các bạn hãy nhớ lấy! Chẳng thể tu hành với mưu đồ tính toán hoặc cầu thành tựu, cầu cảm ứng bởi như vậy là lầm lẫn lớn! Người xưa học là để "minh lý" hiểu rõ đạo làm người, biết thế nào là lánh ác, làm lành, và học điều hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ. Người đời nay học là để có được "danh lợi." Tiếng Trung Hoa, chữ minh lý (ẹú ỗz) và danh lợi (ẩW ậQ) phát âm giống nhau (ming li); song le, về mặt thực hành thì hai thứ hai nẻo, cách biệt nhau tới mười vạn tám ngàn dặm! Người học vì danh vì lợi thì chỉ muốn học ngành gì mà có thể kiếm được thật nhiều tiền, như y-khoa, khoa-học, v.v..., và chẳng hề nghĩ rằng: "Tôi phải học để trong tương lai có thể đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Tôi muốn học nghề thầy thuốc để cứu người, giúp đời, tự lợi, lợi tha." Tánh nhẫn nhục vô cùng quan trọng.[b] Nhẫn nhục tức là bạn nhẫn nại chịu đựng những chuyện bạn không muốn. Thí dụ bạn không muốn bị ai chửi mắng; song, nếu có kẻ chửi mắng bạn thì bạn vẫn vui vẻ. Bạn không thích bị ai đánh; song, nếu có kẻ đánh bạn thì bạn càng phải hoan hỷ. Bạn không muốn bị giết hại vì sinh mạng là quý giá nhất; song, nếu có kẻ giết bạn, thì lúc đó, bạn phải thấy kẻ ấy chân chánh là bậc Thiện-Tri-Thức của bạn, vì y đã kết liễu giùm nghiệp-chướng của đời bạn! [/b] Thế nên, các bạn à! [b]Học Phật pháp cần phải đảo ngược lại mà học. Tu đạo cũng phải đảo ngược lại mà tu. Thế nào là "đảo ngược lại?" Tức là chuyện mà bạn không thích, thì bạn cần phải thích nó. Chẳng phải là chuyện gì bạn không thích thì bạn trút lên đầu kẻ khác![/b] Phương pháp tu hành chân thật nhất nằm trong ba bí quyết: [b]1. Chân: chân thật, không giả dối; làm việc gì cũng phải chân thật. 2. Thành: thành khẩn, thiết tha cung kính, không lười biếng, không cẩu thả. 3. Hằng: hằng thường, bền bỉ, không biến đổi.[/b] Phàm[b] mỗi việc làm, mỗi lời nói, mỗi hành động, đều phải hội đủ ba tâm Chân, Thành, Hằng. Làm bất kỳ công việc gì cũng đều phải có ba tâm này. Như vậy thì tương lai nhất định sẽ thành tựu.[/b] Nên làm nhiều công-đức. [b]Phàm việc gì có lợi ích cho chúng sanh thì hãy tận lực mà làm đó gọi là tu phước. Ðọc tụng kinh điển, nghiên cứu kinh điểnớthâm nhập kinh tạng, trí huệ như hảiớgọi là tu huệ. [/b] Phước và huệ là do tài bồi, tích tập mà có. Nếu chẳng vun bồi thì thủy chung vẫn không có được phước, huệ. Người tu Ðạo sợ nhất là có phiền não, nên nói:   Phiền não vô biên, thệ nguyện đoạn. "Ðoạn trừ phiền-não" là công việc vô cùng cấp bách đối với người tu. [b]Do đó, kẻ có Ðịnh-lực thì gặp bất kỳ cảnh giới gì cũng chẳng sinh phiền-não.[/b] [b]Không có phiền-não thì lòng tư dục sẽ ít đi. Lòng tư dục bắt nguồn từ phiền-não, sinh sản vô-minh; rồi tiếp theo đó là bệnh hoạn phát sinh.[/b] "Không có phiền-não" chẳng có nghĩa là không ai tới phiền nhiễu bạn, mà là tự trong lòng bạn không hề phiền-não.[b] Cho dù có kẻ lại quấy nhiễu, chửi rủa, đánh đập bạn, mà bạn vẫn không sinh phiền-não, thì bạn mới thật sự là có Ðịnh-lực.[/b] [b]Căn bản của Giới Luật chỉ có một điều Không ích-kỷ. Người có lòng ích-kỷ mới phạm Giới. Nếu không có lòng ích-kỷ thì không thể phạm Giới.[/b] Cũng vậy, con người vì có lòng ích-kỷ nên mới phạm pháp. Hễ không có lòng ích-kỷ thì sẽ không phạm pháp! [b]Giới Luật là sanh mạng của người tu Ðạo. Kẻ phạm Giới thì cũng thật thảm thương giống như là sanh mạng y bị cắt đứt vậy! [/b] Khi Ðức Thế Tôn sắp nhập Niết-bàn, Ngài dạy Tôn-giả A-Nan: [b]"Hãy lấy Giới làm Thầy!" Ðiều này chứng tỏ tính cách trọng yếu của Giới Luật.[/b] [b]Ða số người đời cho rằng mệnh vận thì đã được an bài: Mệnh là tám thốn, Khó cầu một trượng! Không sai! Song le, điều đó chỉ đúng với những kẻ bình thường, chẳng tu hành; người tu Ðạo thì không thuộc vào số phận đó.[/b] Người tu Ðạo [b]chẳng nên xem Kinh Dịch, coi bói toán, bởi đó thuộc về kẻ tục, người đời. Người tu Ðạo có thể dứt được sanh tử, hà huống những thứ số mạng, bói toán? Cho nên, người tu Ðạo cần phải vượt ra ngoài những thứ đó không cần phải hiểu biết các môn đó![/b]   Phát Nguyện Học Phật Thế nào là "Phật Pháp?" [b]Phật Pháp tức là Thế Gian Pháp, nhưng là thứ pháp mà người đời không muốn thực hành. Người đời suốt ngày bận rộn, lo lắng, bôn ba; nếu nguyên do chẳng phải là do lòng ích kỷ thì cũng vì muốn bảo toàn sanh mạng, tài sản, cuộc sống cá nhân. [/b] Phật Pháp không vì ích kỷ riêng tư, mà hoàn toàn vì công ích, vì lợi lạc của thế nhân. Vì vậy, kẻ học Phật Pháp[b] phàm làm gì, nói gì cũng nên vì người khác. Phải coi nhẹ chính mình, sẵn sàng xả thân vì người khác, và không gây phiền-não, khổ đau cho kẻ khác.[/b] Ðó chính là Phật Pháp vậy. Vì sao Phật muốn độ chúng sanh? Vì Ngài thấy rằng:[b] "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta." Bởi "cha mẹ" của Ngài đang ở trong sáu nẻo luân hồi chịu khổ đau; do đó, bất luận thế nào Ngài cũng phải cứu độ chúng sanh, hy vọng rằng "cha mẹ"[/b] của Ngài sẽ được xa lìa khổ não, được hưởng sự an vui! Ðức Phật có đại trí huệ; chúng ta có đại ngu si. Do đó, chúng ta phải học Phật, học trí-huệ của Ngài. Chúng ta phải[b] lấy tâm Phật làm tâm mình, lấy nguyện của Phật làm nguyện của mình; lúc nào cũng thực tập Từ, Bi, Hỷ, Xảớ bốn thứ tâm thái không bến bờ; lúc nào cũng phải tu tập Pháp Môn "Nan nhẫn năng nhẫn, nan hành năng hành," điều khó nhẫn mình có thể nhẫn, việc khó làm hay không ai muốn làm thì mình có thể làm. [/b]   Học Phật thì chẳng nên học những thứ cao siêu, thâm áo, vì: [b]Tâm bình thường là Ðạo, Tâm thẳng thắn là chùa. Cho nên, mọi người hãy dùng lòng ngay thẳng mà tu hành![/b] Người học Phật phải làm thế nào để đạo Phật ngày một rạng rỡ; chớ để cho Ðạo ngày một hủ bại. Làm sao để khiến Ðạo Pháp thêm huy hoàng? Trước hết,[b] hãy nuôi dưỡng, vun bồi một phẩm cách cao thượng, tốt đẹp. Khi nền móng vững vàng thì lầu cao mới không sụp đổ; do đó, mọi kiến trúc cao vọi đều được dựng lên từ nơi nền móng kiên cố. Ðối với chuyện tu dưỡng, nếu chúng ta muốn xây đắp một nền tảng chắc thực thì trước hết phải vun bồi phẩm cách, tập tành đạo đức.[/b] Bất luận là[b] Ðại Thừa, Tiểu Thừa, hay Phật Thừa, thừa nào đầu tiên cũng dạy chúng ta phải trừ khử thói hư tật xấu, lỗi lầm sai quấy, dứt bỏ vô-minh, phiền não, tham, sân, si. [/b] Nếu bạn có thể[b] quét sạch mọi thói hư tật xấu thì tự nhiên sẽ tương ưng với nghĩa lý kinh điển. Tật hư, lầm lỗi không trừ, thì bạn chẳng bao giờ có thể thấu hiểu được nghĩa lý trong kinh! [/b] Các bạn hãy dùng chân-tâm mà niệm Phật. [b]Niệm một tiếng Phật thì trong hư không sinh ra một đạo hào-quang. Nếu bạn khẩn thiết, chí tâm niệm Phật, thì đạo hào-quang này sẽ chiếu khắp Tam-thiên thế giới, khiến cho không khí trong ba ngàn Ðại-thiên thế giới trở nên kiết tường, bao nhiêu thứ không khí ô nhiễm, độc địa, tai ương đều biến đổi hết. [/b] Hằng ngày chúng ta niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát; song, "Quán Thế Âm" nghĩa là gì? [b]"Quán Thế Âm" tức là quán xét các âm thanh ở cõi thế gian. Quán cũng có nghĩa là nhìn, song không phải nhìn bên ngoài, mà là nhìn vào tâm của chúng sanh.[/b] Khi chúng ta niệm danh hiệu Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát thì không nên cúi đầu xuống mà niệm. Phải ngẩng đầu lên để biểu thị tinh thần dũng mãnh, tinh tấn; không nên có vẻ ủ rủ, hết hơi, hết sức. Nếu bạn muốn học Phật Pháp, bạn nhất định cần phải[b] tinh tấn, dũng mãnh, giống như con cọp từ núi cao xồng xộc lao xuống, nhai nuốt nghiệp chướng của mình! [/b] Nhớ lấy! Nhớ lấy! Người mới bắt đầu học Phật[b] nhất định phải tu Hạnh Nhẫn Nhục. Dù cho có người thật sự muốn giết bạn, bạn cũng tuyệt nhiên chớ sanh lòng sân hận! [/b] Người học Phật cần phải: [b]"Nhận thật mình là sai, Ðừng trách cứ lỗi người. Lỗi người là lỗi mình, Ðồng thể mới Ðại Bi!"[/b] Người học Phật [b]phải tự hỏi mình: "Tôi bố-thí là cầu danh vọng hay thật tâm muốn giúp kẻ khác? Tôi trì Giới, nhẫn nhục, tinh tấn, tập Thiền-Ðịnh, tu trí huệ... là để cho người ta xem, hay vì tôi thật sự muốn tu hành?" [/b] Tu Ðạo không phải là đeo mặt nạ, [b]giả dối đóng kịch, làm điệu bộ để cho người khác xem. Tu Ðạo là hoàn toàn dựa vào công phu nội tại của chính mình. Ðổ hơi sức ra làm, dụng công một chút thì thu hoạch được một chút. Dùng một phần thành tâm thì được một phần cảm ứng. Tất cả đều phải chân thật, không giả dối. Chớ tự lừa mình, lừa người![/b] Kẻ học Phật cần phải chịu thua lỗ, thiệt thòi. Ðại Sư Vĩnh-Gia Huyền-Giác có câu: [b]"Quán lời ác, là công đức, Thầy lành của ta là kẻ ấy! Chẳng vì chửi mắng sanh thương, ghét, Sao tỏ Vô-Sanh Từ Nhẫn Lực?" Có người chửi mắng bạn, đó là giúp bạn trở thành tốt hơn;[/b] bạn cần phải: [b]Nghịch hay thuận, đều tinh tấn, Chê hay khen, chẳng động tâm![/b] Ðừng nên vì[b] bị chế nhạo, nhục mạ mà sanh lòng oán hận. Phải coi kẻ oán ghét và người thân yêu đều như nhau, và dùng lòng nhân ái mà đối xử với họ; nếu không vậy thì làm sao thể hiện được sức mạnh từ-bi phát xuất từ Vô-Sanh Pháp Nhẫn[/b]? 6 Vì sao dụng công mà chẳng đạt đến chỗ tương ưng? Là vì những [b]tập khí, thói quen từ vô lượng kiếp để lại quá sâu đậm. Do đó, lòng tuy muốn hướng về Bồ-đề, song, sự thật thì chẳng chịu tiến bước tới trước, cứ muốn thụt lùi. Phải biết bởi thói quen quá nặng, nghiệp chướng lại cũng sâu dày, nên mình càng cần phải vất bỏ vọng tưởng. Vất bỏ vọng tưởng không khóớchỉ cần quên bẵng chính mình đi, thì vọng tưởng sẽ chẳng còn! [/b] Người tu Pháp Môn Niệm Phật,[b] ở mọi thời mọi nơi phải niệm không gián đoạn, không ngừng nghỉ sáu chữ "Nam mô A Di Ðà Phật." Lúc thức cũng niệm, lúc ngủ cũng niệm. Phải niệm sáu chữ hồng danh "Nam mô A Di Ðà Phật" làm sao mà kéo cắt không đứt, bẻ chẳng gãy, kiếm chém không rời. Phải dùng sức kiên cố như kim cương mà niệm. [/b] Nếu bạn không có cách gì phá hoại nổi chuổi hồng danh "Nam mô A Di Ðà Phật" thì đó mới gọi là thực hành phép Niệm Phật Tam-Muội. [b]Niệm Phật thì như vậy, tụng Kinh và trì Chú cũng phải giống như thế.[/b] Khi Phật còn tại thế, có lần Ngài bốc một nắm đất, rồi hỏi chư đệ tử: "Các con nói xem, đất trong lòng bàn tay Ta nhiều hay đất trên mặt đất này nhiều?" Ðệ tử thưa: "Ðương nhiên là đất trên mặt đất nhiều, còn đất trong tay Thế Tôn thì quá ít ỏi." Ðức Phật liền nói: "Ðắc nhân thân giả, Như chưởng trung thổ. Thất nhân thân giả, Như đại địa thổ." Nghĩa là:[b] "Những kẻ được thân người thì ít như nắm đất trong tay Ta; còn những kẻ mất thân người thì nhiều như đất trên mặt đất vậy." [/b] Những ai mất thân người, đọa lạc trong đường ác, quả thật nhiều như đất trên mặt đất vậy! Thiền Tông là pháp môn "chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật" và cũng chính là Ðốn Giáo. Ðốn Giáo là do siêng năng tu hành Tiệm Giáo mà raớlý tuy đốn ngộ, sự cần tiệm tu.7 Hiện giờ, chúng ta đi, đứng, nằm, ngồi, đều thuộc về tiệm tu. Chờ đến một ngày nào đó, khi bạn chân chánh sáng tỏ, thì sẽ hoát nhiên khai ngộ; lúc đó gọi là đốn ngộ. Ðốn không tách rời tiệm. Tiệm vốn trợ giúp đốn. Những kẻ [b]tu hành hễ tu pháp gì thì cho pháp đó là hay nhất; vì nếu không hay nhất thì họ không vui vẻ, không chịu tu pháp đó! Nếu các bạn thật sự hiểu được rằng "tất cả các pháp đều là Phật Pháp, tất cả đều không thể nắm bắt được," thì sẽ nhận thấy rằng chẳng có thứ gì để mà chấp trước vào cả.[/b] Ðốn ngộ là do bình thường dụng công mà ra. [b]Khi công phu đạt đến chỗ tương ưng thì bạn hoát nhiên khai ngộ. Nếu bình thường không dụng công, thì bạn chẳng thể nào đốn ngộ được[/b]. Giống như con nít sau khi chào đời thì được huân tập hằng ngày (thâu thập dữ kiện về ngôn ngữ), và đến một lúc nào đó nó sẽ bập bẹ nói thành tiếng; khi nó thốt ra được câu đầu tiên, thì cũng giống như được "khai ngộ."[b] Rồi đến một lúc nào đó, nó sẽ chập chững biết đi; và khi nó đi được bước đầu tiên thì cũng tương tự như được "khai ngộ" vậy. Vì sao đứa bé có thể đi được bước đầu tiên ấy? Nhờ ngày ngày nhìn người lớn đi đứng, nó huân tập những dữ kiện ấy, do đó mà tự nhiên biết đi.[/b] Chúng ta dụng công tu hành cũng vậyớngày nay dụng công, ngày mai dụng công, dụng tới dụng lui cho tới khi công phu chín muồi thì tự nhiên chẳng sanh vọng niệm. Khi vọng tưởng tiêu mất, thì sẽ được khai ngộ! Lỗi lầm mà chúng ta thường phạm phải là [b]thích được kẻ khác khen ngợi, tâng bốc. Nếu có kẻ khen mình một tiếng, thì liền có cảm giác lâng lâng, bay bổng. Mê muội như thế thì làm sao thành Phật? Chính mình mà mình còn không rõ biết, cứ mập mờ![/b] Nếu bạn có thể [b]trì Giới, tu Ðịnh, khai trí Huệ, thì bạn sẽ chẳng động tâm khi bị chửi mắng hay được khen ngợi. Ai nguyền rủa bạn, lòng bạn chẳng hề tức tối; ai khen ngợi bạn, lòng bạn cũng chẳng chút vui thích! Thật ra, chửi hay khen chỉ là một thứ "gió" của thế gian.[/b] Có câu rằng: "Bát phong xuy bất động." Nghĩa là không bị tám thứ "gió" làm giao động. [b]Tám thứ "gió" ấy là gì? Ðó là tâng bốc (xưng), chê cười (ky), đau đớn (khổ), vui sướng (lạc), lợi lộc (lợi), suy vi (suy), chửi mắng (hủy), và khen ngợi (dự).[/b] [b]Nếu bạn để tám thứ "gió" này làm cho tâm trí giao động, tức là nền tảng của bạn chưa được vững vàng. Nền tảng của con người là gì? Là đức hạnh! [/b] [b]Người không đủ đức hạnh thì lòng nóng giận sẽ lớn lắm, vô minh cũng rất nặng nề. Nếu có đức hạnh thì lòng nóng giận sẽ tiêu tan, vô minh sẽ biến thành trí huệ. Do đó, chúng ta tu hành thì cần phải vun bồi đức hạnh.[/b] Người nào có thể [b]hàng phục Sáu Căn, Sáu Trần, Sáu Thức,8 khiến chúng không nhiễu loạn, thì người đó là Bồ-tát. Người nào có thể quét sạch tình cảm, chẳng còn dơ bẩn, thì người đó là Bồ-tát. Bồ-tát thì không khóc, cũng chẳng cười. Ở mọi nơi, mọi lúc, Bồ-tát đều tự tại, chẳng câu thúc, chẳng bó buộc, vô quái vô ngại, chẳng phiền chẳng não, không sanh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm. Người học Phật phải ở nơi chỗ này mà dụng công. [/b] Chúng ta phải tạo Thế Giới Cực Lạc. Làm sao tạo? Ðầu tiên, [b]phải dẹp bỏ thất tình. Thất tình là gì? Ðó là bảy thứ tình cảm vui vẻ (hỷ), giận dữ (nộ), buồn rầu (ai), sợ hãi (cụ), yêu thương (ái), ghét bỏ (ác), và dục vọng (dục). [/b] Chúng ta phải điều phục bảy thứ tình cảm này, khiến chúng không thể nhiễu loạn nữa. Lúc đó, tâm chúng ta sẽ bình an vô sự, mọi thống khổ đều tiêu tan. Vì sao chúng ta bị thống khổ? Vì tâm ta chẳng bình an! Nếu chúng ta chỉ có an lạc, chẳng còn khổ não, thì cái nhân gian này chính là Thế Giới Cực Lạc vậy. Khi bạn[b] niệm Phật thì tương tự như bạn gởi điện tín lên Thế Giới Cực Lạc niệm một câu tức là gởi đi một bức điện tín, niệm hai câu là gởi đi hai bức điện tín ngày ngày niệm Phật là ngày ngày gởi điện tín tới Phật A Di Ðà. [/b] Ở Thế Giới Cực Lạc , Ðức phật A Di Ðà cũng có ra-đa (radar), cũng có máy thâu tín hiệu. Ra-đa và máy thâu tín hiệu là gì? [b]Chính là hoa sen trong ao bảy báu. Bạn niệm một câu thì hoa sen nở lớn một chút. Nếu bạn niệm liên tục thì hoa sen sẽ từ từ nở lớn như bánh xe. Chờ tới khi bạn được vãng sanh về Thế Giới Cực Lạc ở phương Tây, thì Phật-tánh và chân-tánh sẽ hóa sanh nơi hoa sen này. Ðến khi hoa sen nở thì Phật-tánh của bạn cũng hiển hiện[/b]. Do đó có câu: Nguyện sanh Tịnh Ðộ cõi Tây phương, Chín phẩm hoa sen là cha mẹ, Hoa nở, thấy Phật, ngộ Vô Sanh, Bất thối Bồ Tát là đồng bạn. Tin Phật thì có thể khiến chúng ta đắc Thường, Lạc, Ngã, Tịnhớthứ an lạc cứu cánh; do đó, chúng ta nên tin Phật.[b] Song le, "tin Phật" thì chẳng phải nói tin suông là đủ, mà chúng ta cần phải tu hành đúng theo Phật Pháp. Nếu chỉ nói tin, mà không chịu tu hành, thì cũng như mô tả đồ ăn hoặc đếm tiền giùm người, chẳng có ích lợi gì cho bản thân cả.[/b] Cổ nhân có nói rằng: [b]Ðạo là phải hành, không hành thì Ðạo có ích chi? Ðức là do tu, không tu thì Ðức từ đâu lại? [/b] Do đó, chúng ta phải chân chánh thực hành thường đem hai chữ "sanh tử" treo giữa lông mày, đem hai chữ "đạo đức" đặt dưới chân! Tại sao lại n[b]ói "đem hai chữ đạo đức đặt dưới bàn chân?" Bởi vì đạo đức là nền tảng căn bản của con người, cũng như gốc rễ là căn cội của cây cối vậy. Có đạo đức thì mình mới đứng vững được; bằng không, thì dưới chân không có điểm tựa, không có chỗ để mình lập thế mà đứng vững được. Nếu chúng ta thực hiện được hai chữ "đạo đức" này, thì nhân cách sẽ được thành lập vững vàng, mọi sự sẽ tự nhiên có thể thành công![/b] http://www.dharmasite.net/bdh15/HoaSenNgayXuan.html

CÔNG SỞ LÀ ÐẠO TRÀNG

  • Làm việc tức là tập thể dục, công sở tức là đạo tràng.

  • Có đủ ba thứ: đức tin, nghị lực và dũng khí thì không có việc gì trong thiên hạ bạn chẳng làm thành.

  • "Tận nhân sự, thính thiên mệnh" nghĩa là làm tận sức mình rồi hãy nghe mệnh trời. Không nên trong lòng lúc nào cũng sợ khó khăn. Con người phải khắc phục khó khăn, không nên bị khó khăn kềm chế mình.

  • Thành tựu lớn nhất ở đời người là do từ trong thất bại mà ta đứng lên.

  • Người ta nên có lòng dũng mãnh xăn ống quần lội xuống bùn (ám chỉ nhảy vào làm việc cực nhọc khó khăn). Một khi đã ướt nước rồi, mình chẳng nên lo sẽ toát mồ hôi, hay mưa ướt nữa.

  • Hễ có việc thì có phiền não. Nếu muốn làm việc gì thì trước phải quyết tâm, tuyệt đối không được sợ phiền não rắc rối. Nếu không sợ phiền não thì bất kỳ khó khăn rắc rối nào bạn cũng giải quyết đặng.

  • "Niệm tư tại tư" nghĩa là khi tay làm việc gì thì tâm chú ý vào việc đó. Khi chân bước đi trên đường lộ thì tâm chú ý vào bước chân. Khi miệng nói điều gì thì tinh thần chú ý vào miệng nói.

  • Bất luận là việc gì trong sinh hoạt hàng ngày bạn phải chú ý đến sự an toàn, đề phòng chuyện bất trắc. Không nên xem nhẹ rằng gió nhỏ, không nên khinh thường rằng lửa yếu: Một đóm lửa nhỏ tý có thể đốt rụi cả rừng cây.

  • Người bị người ta chi phối (điều động) là người có năng lực. Người chi phối (điều động) người khác là người có tài trí.

  • Ðời người vô thường, do đó khi xã hội cần đến mình, bạn hãy mau mau đáp ứng. Hôm nay có thể nhấc chân cất bước thì hãy mau mau tiến bước.

  • Không nên sợ chở nặng. Chỉ cần la bàn phương hướng đúng đắn thì xe gì đi cũng được. Khi độ người khác thì tự mình cũng sẽ được độ.

  • Không nên tìm đường tắt, đường hẻm. Nếu bạn chọn ngõ hẻm đôi khi ngõ hẻm là ngõ bí, không thể thông suốt. Cuối cùng bạn phải trở lại ngõ chính lúc đầu, đi mất một vòng xa hơn.

  • Làm người hay làm việc, mình phải giữ lòng tinh tấn. Tinh nghĩa là không tạp. Tấn nghĩa là không thối lui. Tinh thì chuyên tâm nhất niệm. Làm việc gì cũng cần chuyên tâm thì mới thành. Không có hai niệm tạp nhạp thì mới tiến bộ.

  • Ðời người giống như leo núi: mình phải tìm một mục tiêu thật tốt. Dùng quảng đời ngắn ngủi của kiếp người dồn hết về mục tiêu ấy. Không nên giải đãi, lười biếng. Bởi vì trên sườn dốc, một khi lười biếng thì sẽ tụt xuống ngay. Cũng không nên đặt mục tiêu tại quá nhiều đỉnh núi. Bởi vì núi này cao còn có núi khác cao hơn. Nếu cứ trèo xong núi này, lại tụt xuống leo núi khác thì kết quả tốn công mệt sức. Mình phải chọn đỉnh núi tốt nhất, thích ứng với mình nhất rồi dũng mãnh tiến tới. Ngày này tháng nọ, cuối cùng mình sẽ thành tựu kết quả to lớn.

  • Người đời nay, thế trí biện thông (thông minh, hiểu rộng), miệng nói hay ho, nhưng khi làm việc thì chuyện gì cũng tính toán hơn thiệt (ích kỷ). Ða số người ta chỉ hiểu lý thuyết, không biết thật sự. Họ biết chữ nghĩa nhiếu lắm song khi đụng phải người, gặp phải việc thì không thể điều giải dung hợp. Ðó chính là tâm phàm phu.

  • Sự cải biến ở xã hội không phải do hò hét mà thành. Do làm mà có.

  • Những kẻ hò hét, nói về chính nghĩa có bao nhiêu kẻ dám hy sinh?

  • Thế nào là chân lý? Khi lý và sự hợp nhất, sự và lý tương dung thì đó là chân lý.

  • Sự (sự việc) không thể tách rời lý (nguyên lý, quy tắc, đạo lý). Phải đặt lý ở trung tâm , còn sự thì vây quanh. Dùng lý để chuyển sự. Không phải dùng sự để sửa đổi lý.

  • Ở giữa lý và sự, trung gian cần có người. Khi lý viên mãn, sự viên mãn thì người viên mãn.

  • Gạo trong thiên hạ: một người không sao ăn cho hết. Công việc trong thiên hạ: một người làm không xuể. Cũng vậy: Một người chẳng sao lập được công cho cả thiên hạ.

  • Làm việc gì cũng phải giữ vững nguyên lý. Không nên cứ chìu lòng, thuận theo người ta đi ăn uống (xã giao). Cứ thường chìu lòng như vậy, thì chẳng những bạn không độ được người ta mà mình còn bị kéo xuống đường xấu.

  • Nếu không thể gây ảnh hưởng tốt tới người khác, tốt nhất hãy làm chuyện bổn phận của mình. Ngay cả Phật còn tại thế, có ba việc Ngài làm không được: 1/ Không thể chuyển được định nghiệp của chúng sinh. 2/ Không thể độ chúng sinh nào mình chẳng có duyên. 3/ Không thể độ hết nghiệp của chúng sinh.

Pháp Môn Một Đời Thành Tựu

Pháp Môn Một Đời Thành Tựu nương pháp niệm Phật sẽ được qua biển sinh tử Kinh Đại Tập nói rằng: [b]”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.Thời đại mạt pháp, căn khí chúng sinh ngu si yếu đuối. Không nương tựa vào sức đại từ, đại nguyện của đức Phật A Di Đà mà có thể đời này thành tựu sự giải thoát sinh tử, trong ức ức vạn người khó có một. Vậy hãy cẩn thận tuân theo lời chỉ dạy của đức Phật. Xin khuyên các vị hãy thành thật niệm Phật, một cửa thâm nhập, bằng không thì khó lo xong việc lớn sinh tử![/b] Chẳng biết tốt xấu [b]Thời mạt pháp nếu bỏ đi pháp môn niệm Phật thì không có bất cứ pháp môn nào có thể giải thoát được sinh tử. Bạn chẳng biết được tốt xấu, chẳng biết mình là phàm phu ngã mạn, trí tuệ mờ tối, chướng sâu, phước mỏng, nghiệp dày. Không chịu căn cứ vào lời dạy của đức Phật, thành thật tu hành nương nhờ sức Phật cứu giúp. Pháp môn niệm Phật không thể nghĩ bàn.[/b] Lại theo ý riêng tu hành các pháp môn khác thì không có cách gì đạt được lợi ích và thọ dụng chân thật, lại không thể giải thoát khổ đau sinh tử trong đời này! Nguyên nhân Như Lai ra đời. Đại sư Thiện Đạo nói rằng:[b] ”Nguyên nhân Như Lai ra đời chỉ nói bản nguyện của Phật A Di Đà“. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tại đời ác năm trược nói pháp 49 năm, điều quan trọng nhất là dạy chúng ta niệm Phật một câu “Nam Mô A Di Đà Phật”, giới thiệu cho chúng ta pháp môn Tịnh Độ thù thắng, có thể một đời thành tựu việc giải thoát sinh tử.[/b] Người niệm Phật có đại phước báo. Người có thể nghe và tin đến được một câu Nam Mô A Di Đà Phật này, họ đã nhiều đời nhiều kiếp đến nay tích lũy bao nhiêu nhân duyên căn lành phước đức, mới có thể đời nay gặp nghe và thọ trì pháp môn Tịnh Độ. Vì thế, người hay niệm Phật đều có phước báo lớn. Phước báo trời, người Đời nay nếu không niệm Phật cầu vãng sinh, tất cả sự nỗ lực chỉ là phước báo nhân thiên, không có cách gì đời nay thoát khỏi sinh tử, vẫn còn trở lại luôn hồi nơi sáu đường, quả thật đáng tiếc. Tro tàn Tro tuy đã tàn nhưng hơi nóng vẫn còn ngấm ngầm bên trong, chỉ cần một làn gió thoảng qua cũng làm nó lóe sáng lên, rồi sau đó trở lại nguội như trước. [b]Tâm của người tu hành cũng nên tập như đống tro tàn, không sinh thêm chuyện phiền phức, khởi tâm phân biệt phải trái. Chỉ cần một câu A Di Đà Phật giữ vững đến cùng! [/b] Thiền thâm diệu vô thượng Kinh Đại Tập nói rằng: [b]”Người tu hành chỉ niệm A Di Đđà Phật, đó gọi là thiền thâm diệu vô thượng. Một câu Nam Mô A Di Đà Phật chính là thiền, mà thiền này lại là vô cùng sâu xa”.[/b] Thần chú thật đơn giản và chân thật Một câu Nam Mô A Di Đà Phật chính là mật. Sáu chữ hồng danh này y theo phạn văn, chưa phiên dịch một chữ, nên sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật là thần chú rất đơn giản và chân thật. Niệm Phật bằng với việc tụng hết thảy Kinh Trọn bộ kinh Đại Bát Nhã cô đọng lại chính là một câu Nam Mô A Di Đà Phật. Lại còn nói thêm rằng:[b] ”Tam tạng mười hai bộ kinh gói gọn trong một câu Nam Mô A Di Đà Phật”. Vì thế, niệm Phật liền bằng với tụng hết Tam tạng kinh điển.[/b] Niệm Phật không thể nghĩ bàn [b]Một câu Nam Mô A Di Đà Phật đã là thiền, là mật rồi, lại còn tổng quát hết Tam tạng kinh điển. Nên pháp môn niệm Phật thật không thể nghĩ bàn. [/b] Niệm Phật là hạnh chánh Kinh Di Đà nói rằng: ”Không thể dùng chút ít nhân duyên căn lành phước đức mà được sinh về cõi Cực Lạc”.[b] Nên người niệm Phật phải thường niệm Phật để làm hạnh chánh, lấy sáu độ và vạn hạnh làm phụ thêm. Không nên để tâm phan duyên. Đối với các duyên xấu cần phải hết sức tránh xa, đối với các duyên tốt cần phải nỗ lực tùy duyên mà làm. Nhưng cần phải có trí tuệ cân nhắc và có chừng mực. Không nên bỏ gốc theo ngọn, các hạnh chánh và hạnh phụ lộn xộn. Chỉ đuổi theo phước báu trời người mà quên mất việc lớn giải thoát sinh tử của chính mình.[/b] Một môn thâm nhập Thời đại mạt pháp, người học Phật nên dùng tâm thành thật niệm Phật làm phép tắc. Duy chỉ dùng một môn trì danh niệm Phật để thâm nhập. Khởi phát phải dính dáng tới quán tưởng hay quán tượng Phật. Nhân vì chúng sinh thời mạy pháp căn cơ chậm lụt, nên việc quán tưởng và quán tượng chẳng phải người thượng căn thì không thể thành tựu. [b]Chỉ có hết lòng chân thật tụng một câu Thánh hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật” sẽ vô cùng bảo đảm.[/b] Niềm tin sâu Chúng ta là những người tu học theo pháp môn Tịnh Độ. Đối với thế giới Cực Lạc ở Tây phương, không những chỉ có niềm tin mà cần phải tin cho thật sâu. Đối với thế giới Tây Phương Cực Lạc của đức Phật A Di Đà và pháp trì danh hiệu Phật, có được niềm tin sâu sẽ vãng sanh không nghi. [b]Dù cho bất kỳ sự cản trở phỉ báng nào, đều không dao động đến tín tâm, cầu sinh Tịnh Độ của chúng ta. Được vậy mới gọi là người có niềm tin sâu. [/b] Nguyện cấp thiết Chúng ta đã tin sâu lòng đại từ đại bi không bờ bến của đức Phật A Di Đà. Chúng ta nên phát nguyện cầu sinh về thế giới Cực Lạc.[b] Không chỉ là nguyện thôi, mà phải nguyện cấp thiết. Trong tâm phải hết lòng thiết thực chán chia lìa cái khổ vô cùng của thế giới Ta Bà, vui mừng cầu cái vui vô cùng của thế giới Cực Lạc. Lập nên nguyện rộng lớn, chắc chắn cầu sinh về cõi Cực Lạc ở phương Tây.[/b] Dù cho bất cứ tiếng tăm và lợi dưỡng nào, hoặc bệnh khổ hành hạ đều không thể thay đổi tâm nguyện cầu sinh Tịnh độ của chúng ta. Được vậy mới gọi là người có nguyện tha thiết. Tự hỏi lương tâm Nếu hiện tại đức Phật A Di Đà hiện thân trước mặt chúng ta, mở rộng cánh cửa của thế giới Cực Lạc ở phương Tây để tiếp dẫn chúng ta đi về với Ngài, ngay tại đây, người có nguyện đi ít lại càng ít. Đây là do người tu học pháp môn Tịnh Độ có niềm tin nhưng không được sâu, có nguyện nhưng nguyện không tha thiết, có thực hành nhưng thực hành không đủ sức, y như cứ quyến luyến cõi Ta Bà. Đối với danh lợi thế tục, tình duyên con cái nhiều thứ ràng buộc. Vẫn còn nhiều duyên không buông xuống. Mọi người tự hỏi lương tâm mình.[b] Đối với thế giới Cực Lạc, ba món tư lương “Tín, Nguyện và Hạnh” của các bạn đầy đủ được bao nhiêu? Đối với danh lợi trần duyên của thế giới Ta Bà, bạn đã buông bỏ được bao nhiêu?[/b] Thành thật niệm Phật Chân thật niệm Phật chính là thành thật đem một câu A Di Đà Phật làm “bổn mạng nguyên thần” của chính mình[b]. Cần phải rành mạch, rõ ràng, miên mật, khít khao mà trì niệm. Tuyệt đối không vì bất cứ phương pháp huyền diệu, thần kỳ nào hay bất cứ người có danh vọng học vấn làm cho dao động.[/b] Sống chuyển thành chín, chín chuyển thành sống Người hành trì pháp môn niệm Phật cần phải thực hành hai nguyên tắc lớn “chỗ sống chuyển thành chín, chỗ chín chuyển thành sống”, nghĩa là phải đem một câu Nam Mô A Di Đà Phật niệm cho thật nhiều. [b]Luôn thúc giục chính mình trong bốn oai nghi đi đứng, nằm ngồi; luôn để khởi một câu Phật hiệu. Lâu ngày dài tháng niệm thành thói quen tốt niệm Phật. Đến phút lâm chung rất quan trọng, Phật hiệu tự nhiên liền có thể đề khởi lên được, lúc này nguyện vãng sinh đã có phần nắm chắc trong tay.[/b] Tức một tức ba Niệm Phật chính là tịnh, là thiền mà cũng chính là mật.[b] Một tức ba, ba tức một. Một câu Nam Mô A Di Đà Phật bao gồm tất cả tinh hoa mà Thế Tôn thuyết pháp trong 49 năm. Niệm Phật đích thực là không thể nghĩ bàn. Hãy hết lòng thành thật, đem một câu Nam Mô A Di Đà niệm liên tục đều đặn. Tất cả tinh túy của Phật giáo trọn ở trong đó. [/b] Nương tự lực hay nương Phật lực? Học thiền, mật sở dĩ khó thành tựu là do nương tựa ở sức mình. Điều đó chỉ có căn cơ bậc thượng mới có thể thành tựu. Nguyên nhân niệm Phật dễ thành tựu là biết nương vào sức Phật.[b] Đức Phật A Di Đà có đại từ, đại bi. Hãy nương vào bổn nguyện tiếp dẫn chúng sinh của Ngài. Đã nương vào sự gia hộ của Phật, các bậc thượng, trung, hạ căn đều được nhiếp thọ. Cắt ngang sinh tử hèn hạ, một đời thành tựu vượt phàm vào thánh.[/b] Niệm Phật mới là chân chánh cứu cảnh, lại còn bủa khắp cả ba căn thượng, trung, hạ. Không có hạng nào không thu nhiếp. Thử xem kinh Hoa Nghiêm, ngài Thiện Tài Đồng Tử qua 53 lần tham học, về sau ngài Bồ Tát Phổ Hiền còn dạy lấy mười Đại Nguyện Vương dẫn dắt quay về Cực Lạc. Bởi thế, [b]kinh Hoa Nghiêm là vô thượng kinh vương. Sau khi Thế Tôn thành đạo, vì 41 vị pháp thân Đại sĩ ở nơi hội Hoa Tạng Hải, dạy dỗ và dẫn dắt, đều khuyên Đại Bồ Tát niệm Phật cầu sinh Tây Phương để viên mãn Phật quả. Chúng ta là hạng phàm phu, lại coi thường niệm Phật, cho niệm Phật là cạn cợt, bảo đó là chỗ hành trì của hành nam nữ ngu si. Chúng ta thật quá ngu si mê muội, thật đáng thương không thể cứu được![/b] Bí quyết niệm Phật. Bí quyết niệm Phật không gì lạ, chính là cần nhiều niệm. Niệm từ lúc thô sơ cho đến khi thuần thục, nuôi dưỡng thành thói quen niệm Phật.[b] Đem một câu Nam Mô A Di Đà Phật hết lòng cung kính niệm, ứng dụng vào các việc như ăn mặc, đi đứng thường ngày. Lâu ngày như thế, tự mình có thể biết được sự mầu nhiệm trong câu niệm Phật.[/b] Niệm Phật lớn tiếng [b]Khi niệm Phật nếu vong niệm dấy khởi liên miên, tâm thức tạp loạn, không thể chuyên chú, ắt cần phải niệm lớn tiếng để nhiếp tâm. Dùng tai lắng nghe có thể trừ được vọng niệm. Kinh Nghiêp Báo Sai Biệt nói rằng: ”Niệm Phật lớn tiếng có 12 thứ công đức. Một, có thể trừ bệnh ngủ gật. Hai, thiên ma kinh sợ. Ba, tiếng biến khắp mười phương. Bốn, dứt khổ trong ba đường ác. Năm, âm thanh bên ngoài không lọt vào tai. Sáu, tâm chẳng toán loạn. Bảy, tinh tấn dũng mãnh. Tám, Chư Phật hoan hỷ. Chín, Tam Muội hiện tiền. Mười, vãng sinh Tịnh Độ”.[/b] (Tam muội: Còn gọi là Tam Ma Đề hoặc Tam Ma Địa. Trung Hoa dịch là Chánh Định, tức là lìa các tà niệm, tâm trụ một chỗ không các tà niệm). Cách hành trì của người học Phật [b]Điều tối quan trọng trong cách hành trì của người học Phật là cần phải thâm nhập một môn, thành thật chấp trì Thánh hiệu A Di Đà Phật. Dù cho biển động, núi tan hoặc trải qua thời gian lâu dài, tuyệt không hề thay đổi.[/b] Mọi hành vi trong cuộc sống đều không nên sát sinh, ăn chay làm đầu cho hạnh đoạn các điều ác. Lấy việc chuộc mạng phóng sinh làm trước cho hạnh làm các điều thiện. Nội công và ngoại công Phần nội công và ngoại công của người học Phật cần phải song song và được coi trọng. Nội công chấp trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật. [b]Một câu Nam Mô A Di Đà Phật đến chết giữ không quên. Khi đi đứng, nằm ngồi luôn nhớ niệm. Ngoại công là Lục độ vạn hạnh, đoạn ác tu thiện, không sát sinh, ăn chay, phóng sinh và giúp đỡ mọi người. Nội công là chính, ngoại công là phụ. Nội công là chủ, ngoại công là kẻ tùy tùng. Tiếc cho người đời chỉ trọng ngoại công mà quên nội công, bỏ gốc theo ngọn, ngu si điên đảo thật đáng tiếc lắm vậy![/b] Khó hành đạo - dễ hành đạo Ước muốn được thành Phật, chúng ta chọn pháp tu như Thiền tông, Mật tông hay Luật tông đều phải trải qua ba đại A tăng kỳ kiếp, ròng ra tu hành mới có thể thành công, bởi chỉ nương vào tự lực nên rất khó. Khi chọn tu pháp môn Tịnh Độ, chúng ta nương vào một câu thánh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, liền có thể một đời thành tựu vượt phàm vào Thánh. Nguyên do là chúng ta nương tựa vào sức bổn nguyện của Ngài sẽ được Ngài gia hộ cho nên dễ dàng thành tựu. Đại sư Liên Trì dạy: ”Giúp cha mẹ giải thoát sinh tử, mới tròn bổn phận làm đạo con”. Hạnh hiếu lớn nhất ở thể gian không gì hơn khuyên cha mẹ niệm Phật, phát nguyện vãng sanh thế giới Cực Lạc. Giả sử chúng ta cúng dường cha mẹ rất nhiều vàng ngọc châu báu, xây nhà cao đẹp lộng lẫy cho cha mẹ ở, nhưng lúc già chết đến, cha mẹ không thể mang theo được[b]. Trong cuộc sống dẫu nhiều năm được gần gũi bên cha mẹ, ân cần thăm hỏi với tâm mến thương, tất cả đều chỉ là hư giả, tạm thời. Chỉ có khuyên cha mẹ thường niệm một câu Nam Mô A Di Đà Phật mới tròn đạo hiếu thảo.[/b] Đây mới thật sự mời đón cha mẹ đến chỗ hoàn toàn lợi ích. Nguyện khắp thiện hạ, những người con có tâm hiếu thảo, cố gắng phụng dưỡng và báo đáp công ơn cha mẹ với tâm hiếu thảo này. Tự thanh tịnh ý mình Giáo nghĩa chư Phật dạy không ngoài 16 chữ “việc ác chớ làm, siêng làm việc lành, thanh tịnh ý mình, lời chư Phật dạy”. Trong 16 chữ ấy quan trọng nhất là bốn chữ “thanh tịnh ý mình”.[b] Với người niệm Phật để thanh tịnh được ý mình, phải bền vững nắm chắc một câu Nam Mô A Di Đà Phật. Dùng nhất tâm niệm Phật để chặt đứt và hàng phục muôn vàn vọng niệm, thanh tịnh từ tâm. Nếu niệm Phật không gián đoạn, sẽ hiện rõ tánh Phật xưa nay có sẵn nơi mỗi chúng ta.[/b] Chỉ và quán Có người nói rằng: [b]Thế nào gọi là Chỉ và Quán? Quả thật chỉ niệm một câu A Di Đà Phật chính là chỉ và quán rồi. Có thể chuyên niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật đến khi không còn khởi niệm, vọng niệm không sinh gọi là chỉ. Khi niệm danh hiệu Phật thường biết từng niệm, từng niệm rõ ràng đều đặn gọi là quán. Có thể nương vào chương đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông trong kinh Lăng Nghiêm: ”Thu nhiếp sáu căn, tịnh niệm liên tục”. Chân thật chấp trì danh hiệu Phật chính là Chỉ và Quán vậy.[/b] Tức tâm tịnh độ Dù [b]bạn dốc sức nghiên cứu các pháp môn Chỉ Quán, có thể nơi giáo chỉ tông Thiên Thai đã dung hội và quán thông. Thậm chí còn có thể tụng thuộc làu làu Tam tạng kinh điển, đều không có chỗ dùng. Bạn vẫn là kẻ phàm phu còn trói buộc trong vòng luân hồi sinh tử. Muốn thành Phật phải trải qua ba đại A tăng kỳ kiếp. Tuy cái gì bạn cũng không biết, nhưng chỉ cần bạn thành thật chấp trì danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật với lòng tin sâu xa và tâm nguyện tha thiết cầu sinh về cõi Cực Lạc, là có thể thành tựu việc giải thoát sinh tử một đời, sẽ vượt phàm vào thánh. Pháp môn niệm Phật thật không thể nghĩ bàn. Xin khuyên tất cả Phật tử hãy biết tâm mình là cõi Tịnh Độ, nên an tâm niệm Phật chớ để thời gian qua suông, vì mạng người có hạn![/b] Thời mạt pháp niệm Phật dễ thành tựu Đức Phật là bậc thông suốt Tam Giới. [b]Ngài dạy rằng: ”Thời đại chánh pháp giải thoát thành tựu. Thời đại tượng pháp thiền định thành tựu. Thời đại mạt pháp niệm Phật thành tựu”. Những lời này chúng ta đã hiểu biết rõ ràng. Thời đại mạt pháp ngày càng xa cách Thánh nhân. Vận mạng pháp môn ngày càng suy giảm. Căn cơ chúng sinh ngày càng châm lụt, phước báo mong manh, trí tuệ thô thiển, tội nghiệp sâu nặng, không đủ tư cách để nói đến trì giới và thiền định.[/b] Chỉ còn nương tựa vào nguyên lực đại từ đại bi của đức A Di Đà. Nương tựa vào một câu Thánh hiệu hết sức cao thượng, hết sức đơn giản và chân thật, mới có thể vượt thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi Niệm Phật càng về sau càng quan trọng Thời mạt pháp tương lai sẽ đến đoạn cuối cùng. Pháp môn niệm Phật nhất định càng về sau càng quan trọng.[b] Chúng sinh đời vị lai phước báu mỏng dần, nghiệp chướng nặng thêm. Như ngày này một bộ kinh điển quý báu, để mặc cho hư hết, không xem tới. Có thể đến cuối cùng, Phật giáo tại thế gian còn lưu truyền một câu thánh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật.[/b] Chúng sinh đã quá đau khổ, nương tựa một câu Phật hiệu là nương tựa vào sức thệ nguyện đại từ đại bi của Phật A Di Đà. Chỉ cần đơn giản chấp trì danh hiệu Phật, tin và nguyện vãng sinh, liền có thể nương nhờ sức Phật cứu vớt thoát khỏi biển khổ sinh tử. Như đây có thể thấy một câu Nam Mô A Di Đà Phật thật tinh hoa vô cùng trong Tam tạng kinh điển của Phật giáo. Thành thật niệm Phật Đại sư Liên Trì là bậc Tổ sư của tông Tịnh độ vào đời nhà Minh. Trước khi vãng sinh Cực Lạc đại chúng cầu thỉnh để lại lời di chúc.[b] Đại sư dạy rằng ”Thành thật niệm Phật”. Tổ sư một đời tu hành chỉ để lại bốn chữ đơn giản, nhưng bốn chữ ấy đã nhiếp tất cả cương lĩnh của người tu hành thật sự bên trong. Vào thời mạt pháp, ma mạnh pháp yếu, chúng tà đầy dẫy. Chúng ta chỉ cần nắm chắc bốn chữ “thành thật niệm Phật” này làm nguyên tắc cho việc tu hành thì không bị tất cả tà ma ngăn trở, mê hoặc điên đảo.[/b] Đệ tử Phật chân chánh Tất cả việc tu hành không nên xa rời pháp niệm Phật, tất cả sự hành trì không nên trái với sự thành thật. Không niệm Phật, tu hành không thể thành tựu; không thành thật, tu hành không thể được đắc lực. Nhớ kỹ lời giáo huấn để lại của Đại sư Liên Trì; “Thành thật niệm Phật”. Chúng ta chỉ có thành thật trì danh hiệu Phật mới đúng là đệ tử chân chánh của Ngài. Học Phật chân chánh Nếu chúng ta đã chân chánh học Phật thì càng học càng đạt đến chỗ đơn giản và thuần thục, càng học nhất định càng khiêm tốn và luôn biết hổ thẹn. [b]Đơn giản và thuần thục đến mức trong sinh hoạt chỉ là một câu thánh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật tràn ngập trong tâm; tâm khiêm tốn đến lúc chỉ thấy tất cả mọi người đều là Bồ Tát, duy chỉ có mình ta là phàm phu. Lòng hổ thẹn nên tất cả việc tốt chỉ hướng cho người khác, nếu có việc xấu, lỗi lầm mình nhận lấy hết. Người có tâm lượng cao cả này trên đường học Phật sẽ đạt được thành tựu chân chánh.[/b] Đầy đủ lòng tin và tâm nguyện Đại sư Ngẫu Ích trong “Di đà yếu giải” giảng rất rõ ràng: [b]”Được sinh Cực Lạc hay không, phẩm vị cao hay thấp hoàn toàn do nơi niệm Phật sâu hay cạn”. Người niệm Phật chỉ cần đầy đủ niềm tin và tâm nguyện, khiến khi lâm chung mười niệm cũng quyết được vãng sinh. Nhưng sao hiện nay người niệm Phật rất nhiều mà người vãng sinh thì rất ít? Then chốt chính là niềm tin và tâm nguyện không rõ ràng, sự tu hành quá thô thiển không cố gắng tới cùng.[/b] Một câu niệm Phật nhiếp hết tất cả Đại sư Ngẫu Ích nói:[b] ”Niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật thuần thục, thì tất cả tinh hoa của Tam tạng kinh điển đều ở trong ấy. Một ngàn bảy trăm công án, các cơ quan hướng thượng cũng ở bên trong, ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, Tam tụ tịnh giới cũng ở trong ấy”. Một danh hiệu Phật đầy đủ tất cả thiền, giáo, mật chú và tất cả phương pháp tu hành. Một danh hiệu Phật đầy đủ tất cả Giới, Định, Tuệ pháp môn Tịnh độ đích thực không thể nghĩ, không thể bàn![/b] [b]Niệm Phật chính là thiền Bạn nghĩ cần phải học thiền ư? Hãy niệm Phật đi! Vì trong kinh Đại Tập dạy chúng ta rằng: ”Niệm Phật chính là thiền vô thượng thậm thâm vi diệu”. Niệm Phật chính là mật Bạn nghĩ cần phải học mật tông ư? Hãy niệm Phật đi! Bởi một câu thánh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, sáu chữ hồng danh này nương vào Phạn văn chưa phiên dịch một chữ. Đó là mật chú đơn giản, chân thật nhất. Niệm Phật chính là giáo Bạn nghĩ cần phải học kinh giáo ư? Hãy niệm Phật đi! Vì niệm Phật chính là tụng hết thảy kinh. Một câu Nam Mô A Di Đà Phật là tinh hoa cô đọng của ba tạng kinh điển. Niệm Phật chính là Giới, Định, Tuệ Giải thích và phát huy hết ý nghĩa của ba tạng kinh điển chẳng qua chỉ có ba chữ Giới, Định, Tuệ mà thôi. Nhưng một câu Nam Mô A Di Đà Phậtđầy đủ và viên mãn phước đức và trí tuệ. Nói hết tất cả lời tốt trong thiên hạ chẳng bằng không nói một lời mà chỉ thầm niệm một câu Nam Mô A Di Đà Phật. Làm hết tất cả việc tốt trong thiên hạ chẳng bằng không làm gì, chỉ chuyên niệm một câu Nam Mô A Di Đà Phật. Học hết tất cả học vấn của thế gian không bằng không biết một chữ, chuyên niệm một câu Nam Mô A Di Đà Phật.[/b] Đại Bồ Tát Văn Thù và Phổ Hiền đều niệm Phật. Trong kinh Quán Phật Tam muội, ngài Bồ Tát Văn Thù nói kệ rằng: Nguyện tôi khi mạng chung, Diệt hết các chướng ngại. Đối diện Phật Di Đà, Sinh về nước Cực Lạc. Trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện kinh Hoa Nghiêm, ngài Bồ Tát Phổ Hiền nói kệ: Nguyện cho tôi khi sắp lâm chung Trừ sạch tất cả các chướng ngại. Mắt thấy rõ đức Phật Di Đà, Tức được sinh về nước Cực Lạc. Đến như [b]những bậc đại Bồ Tát như Ngài Văn Thù, Phổ Hiền còn niệm Phật, nguyện cầu sinh về thế giới Cực Lạc. Ngày nay không ít người coi thường việc niệm Phật phát nguyện vãng sinh. Thật đáng tiếc! Đáng thương thay! Bạn tự cho mình là hạng người gì? Đức Phật chỉ dạy, khuyên bảo chúng sinh sinh về cõi Cực Lạc Phương Tây, bạn lại không chịu nghe lời Phật dạy. Đem “giá trị Liên Thành” vô giá đổi một văn tiền có giá trị vứt bỏ bên đống rác. Đáng trách bạn không biết tốt hay xấu. Có mắt không tròng, nên nhìn không thấy Thái Sơn, nghiệp chướng quá nặng, phước báu lại mong manh![/b] Pháp môn đặc biệt Đại sư Ấn Quang tán thán pháp môn Tịnh độ:[b] ”Chín cõi chúng sinh lìa pháp môn này không thể viên thành quả Phật, mười phương chư Phật bỏ pháp môn này dưới không thể lợi khắp các hạng chúng sinh”. Niệm Phật là pháp môn đặc biệt. Đức Phật một đời chỉ dạy, căn cơ thượng, trung và hạ đều được lợi ích. [/b]Tất cả chúng sinh trong pháp giới đều nên tu tập. Trên đến Bồ Tát Đẳng Giác, dưới đến kẻ buôn bán nhỏ, hạng đầy tớ thấp hèn, chỉ cần chịu niệm Phật đều giống như nhau; thừa cơ nương vào sức Phật cứu độ, chót vót vượt phàm vào Thánh thoát khỏi sinh tử. Niệm Phật là pháp môn vô thượng, rất cao siêu, huyền diệu không thể nghĩ bàn, chỉ trong một đời là thành tựu. Bình thường rất cao, thành thật rất diệu [b]Tâm bình thường thì đạo càng cao, lòng thành thật thì pháp phật mầu nhiệm. Pháp môn tu hành cao siêu, mầu nhiệm chính là giữ tâm rất bình thường. Tu hành và học vấn sâu xa chính là hết lòng thành thật. Một câu Nam Mô A Di Đà Phật rất bình thường nhưng rất cao siêu và mầu nhiệm. Một câu Nam Mô A Di Đà Phật rất thành thật nhưng rất sâu xa. Chúng ta có thể giữ tâm như ngu, nhưng bình thường và thành thật, thường niệm một câu Nam Mô A Di Đà Phật. Từ thủy đến chung, vĩnh viễn không thay đổi, chính là hạng người bậc nhất trong số người tu tập Phật pháp.[/b] Tu pháp niệm Phật là vững vàng nhất Thiền sư Bách Trượng nói rằng:[b] ”Tu hành, dùng pháp môn niệm Phật là vững vàng nhất”. Đây là một trong 20 điều phép tắc. Thiền sư Bách Trượng là bậc cao đức trong Thiền Tông, vì dạy dỗ đệ tử mà đề xuất ra. Pháp niệm Phật là con đường tu hành rất an ổn, vì niệm Phật được nương vào sức đại từ đại bi của Phật A Di Đà và sẽ được Ngài nhiếp thọ. Đây là con đường tu hành thành công tuyệt đối có bảo chứng.[/b] Tham thiền, học giáo và các pháp môn khác chỉ nương tựa vào sức mình. Chúng sinh thời mạt pháp căn cơ ngu đần và yếu đuối, nghiệp chướng sâu nặng, không nương sức bồn nguyện của Phật làm sao mà hành cho thông! Hãy nhanh quay về niệm Phật Quá trình lịch sử là một tấm gương. Bao nhiêu thí dụ về sự tu hành của chư vị cổ đức đều để cảnh giác chúng ta. Hiện tại, người tri thức về học vấn rất thích tham thiền và nghiên cứu giáo lý, lại coi rẻ việc niệm Phật, xem niệm Phật là cạn cợt, là pháp môn của kẻ nam nữ ngu si. Xin những người này hãy tự hỏi lại lương tâm. [b]Trí tuệ của quý vị có sánh được Thiền sư Bách Trượng, Đại sư Liên Trì, Triệt Ngộ hay không? Sự tu hành tinh tấn của quý vị có vượt trội như chư vị cổ đức hay không? Chư vị cổ đức với nghị lực và trí tuệ hơn người, đã tiêu phí tâm huyết hơn mấy mươi năm đều không có cách gì ở trong tham thiền đạt được thành tựu. Quý vị tự cho mình là hạng người gì, còn lớn tiếng không thẹn thùng, chỉ muốn tham thiền không nguyện niệm Phật?[/b] Có thể nói rõ với quý vị, tất cả sự nỗ lực đều phí tổn tâm huyết mà thôi, tuyệt không có cách gì thành công được. Hãy nhanh quay về niệm Phật đi, chớ nên coi thường việc này. Rất mong! Rất mong! Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng Nghĩ muốn tiêu trừ nghiệp chướng phải cần nội công và ngoại công song hành, hạnh chánh và hạnh phụ gồm tu. Nội công là hạnh chánh, đó là niệm Phật lễ Phật . Niệm Phật trong sinh hoạt phải luôn nhớ thầm niệm một câu thánh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật.[b] Dùng nhất niệm vạn đức hồng danh chí tôn vô thượng để trung hoà tất cả vọng niệm và thói xấu tham, sân, si từ vô thủy kiếp đến nay. Những nghiệp chướng nặng nề này sẽ dung hòa vào một câu thánh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, và được đức Phật A Di Đà đại từ đại bi và tất cả chư Phật trong mười phương hộ niệm, che chở và bao bọc, giúp tiêu trừ nghiệp chướng của chính mình.[/b] Lạy Phật chính là kính lễ chư Phật để sám hối nghiệp chướng của chúng ta. Mỗi ngày lễ 88 vị Phật hoặc chuyên lạy Phật A Di Đà để sám hối. Trong quá trình lễ lạy, ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh nương vào sức bồn thệ nguyện của chư Phật, dùng sức mạnh sám hối để diệt trừ tội lỗi và tiêu trừ nghiệp chướng. Ngoại công là hạnh phụ có thể giúp thành tựu đạo nghiệp của chúng ta. Ngoại công chính là ăn chay và phóng sinh. Chúng ta trong sinh hoạt hàng ngày không nên làm điều ác, nhớ phải tu nghiệp lành. [b]Việc cực ác chính là ăn thịt và giết hại. Vì thế, muốn dứt điều ác trước hết phải ăn chay. Việc thiện lớn nhất là chuộc mạng phóng sinh[/b]. Vì thế, muốn tu điều thiện, trước phải lo chuộc mạng phóng sinh. Ăn chay và phóng sinh là hai bài tập quan trọng nhất của người tu Phật Nếu như có thể nội công và ngoại công cùng tu, thì dùng nội công niệm Phật, lạy Phật làm chính; lấy hạnh ăn chay và phóng sinh làm phụ. Cần phải hết lòng chí kính nỗ lực tinh tấn thì sẽ thành tựu nhanh chóng. Một câu danh hiệu Phật Trong Phật giáo, pháp tu đơn giản nhất chính là một câu Nam Mô A Di Đà Phật. Pháp tu sâu xa nhất cũng là một câu Nam Mô A Di Đà Phật. [b]Rất đơn giản chỉ dành cho hạng người buôn bán nhỏ, người bình dân, kẻ tôi tớ. Quá sâu xa thì trên đất Bồ Tát Đẳng giác cũng không thể hiểu hết. Một câu Nam Mô A Di Đà Phật cũng rất đơn giản, rất sâu xa, tột cùng viên mãn những thuần thục, hết sức bình thường nhưng huyền diệu, dễ hành trì nhưng cũng khó giải thích. Một câu Nam Mô A Di Đà Phật là mục đích chủ yếu mà Phật thị hiện nơi cõi đời ô trược này cũng là đại pháp vô thượng thông suốt bổn nguyện của đức Phật. Đó cũng là tinh hoa trí tột của ba tạng giáo điển. Một câu Nam Mô A Di Đà Phật vượt lên tất cả pháp Giáo, Thiền, Mật và Luật học, nhiếp hết tất cả pháp môn.[/b] Trích: Liên Trì Cảnh Sách Việt dịch: Thích Quảng Ánh

Thứ Năm, 4 tháng 9, 2008

Khai Thị Người Mới Phát Tâm

A. Tôi thường nói: Muốn được sự thật ích của Phật pháp, phải tìm nơi lòng kính sợ. Có một phần cung kính, tiêu một phần tội nghiệp, thêm một phần phúc tuệ. Có mười phần cung kính, tiêu mười phần tội nghiệp, thêm mười phần phúc tuệ. Nếu không mảy may cung kính, thì sự tụng kinh niệm Phật tuy chẳng phải hoàn toàn không lợi ích, nhưng do tội khinh lờn ấy, trước phải bị nhiều kiếp đọa vào tam đồ. Đến khi tội hết, mới nương nơi nhân lành ấy, lại được nghe pháp tu hành, ăn chay niệm Phật, cầu về Tây Phương để thoát đường sinh tử? Nếu hiện đời nầy hết lòng thành kính, thì hiện đời có thể nương sức từ của Phật đới nghiệp vãng sinh. Và một phen được vãng sanh, thì vượt phàm vào Thánh, thoát khỏi luân hồi, hằng xa lìa các sự khổ, chỉ thuần hưởng những điều vui. B. Con người tu phúc và tạo nghiệp, tóm tại chẳng qua ba nghiệp sáu căn: Sáu căn là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Năm căn trước thuộc về thân nghiệp, một ý căn sau thuộc về tâm, tức là ý nghiệp. Ba nghiệp là nghiệp thân, khẩu và ý. Thân nghiệp có ba: sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Ba việc này tội rất nặng, người học Phật phải để tâm gìn giữ. Về phần sát sinh: phàm là động vật, tất đều biết tham sống sợ chết, ta không nên giết hại, nếu giết mà ăn thịt thì sẽ kết thành nghiệp sát, đời sau phải bị nó giết lại. Vậy người Phật tử nên ăn chay và yêu tiếc sinh mạng. Về phần trộm cắp: chẳng luận vật lớn nhỏ của người khác, ta không nên lấy khi người không cho. Trộm vật nhỏ thì mất nhân cách mình, trộm vật lớn thì hại thân người. Trộm đồ vật người xem dường như có lợi, nhưng thật ra chính mình bị giảm phúc thọ, có khi mất tính mạng, so với của trộm được, sự tổn thất là càng nhiều hơn bội phần. Nếu dùng mưu kế lấy, hoặc dùng thế lực ép bức lấy, hay thầm lén mà lấy, đều thuộc về trộm cắp. Người trộm cắp, tất sinh con lưu đãng, trái lại kẻ liêm khiết thì sinh con hiền lương, đây là nhân qủa nhất định theo lý thiên nhiên vậy. Về phần tà dâm nếu chẳng phải thê thiếp của mình, thì không luận kẻ sang hèn, đều không được cùng nhau làm điều tà dâm. Tà dâm là việc trái ngược nhân luân, chính là đem thân người mà làm hạnh súc sanh, hiện đời đã như thế, kiếp sau khó có khỏi đọa vào súc loại. Người đời cho việc con gái lang chạ là điều sỉ hổ, nhưng đâu nghĩ rằng con trai tà dâm nào có khác chi? Kẻ tà dâm tất sinh con không trinh khiết, có ai lại muốn cho con cái mình không trinh khiết ư? „y cũng bởi chính mình trước đã làm việc đó, con cái thụ bẩm khí chất của mình, quyết khó được trinh chính. Lại nữa, chẳng những không được dâm theo ngoại sắc, mà vợ chồng chung chạ với nhau cũng phải có hạn chế; nếu chẳng hạn chế thì con người dễ bị suy tàn hoặc phải chết non. Kẻ tham việc phòng thất rất khó sinh con, dù sinh cũng khó nên người, và dù cho được nên người cũng là kẻ yếu đuối không thành tựu việc chi. Tình đời cho hành dâm là vui, đâu biết vui trong giây phút, khổ đến trọn đời, có khi còn di hại cho con cháu nữa! Ba điều trên đây không làm thì thân nghiệp lành, làm thì thân nghiệp ác. Khẩu nghiệp có bốn: nói dối, nói trau truốt, nói đôi chiều, nói hung ác. Nói dối là nói lời không thành thật, lời đã không thành thật thì tâm cũng không thành thật, do đó nhân cách bị tổn thất rất nhiều. Nói trau chuốt là nói lời phù phiếm hoa tình, khiến cho người sinh ra tâm niệm dâm đãng. Những thanh thiếu niên còn non dại nghe lời ấy lâu, nếu không tà dâm cho mất nhân cách, thì cũng làm việc thủ dâm để hại sắc thân. Kẻ nói lời có hại cho người như thế, dù không tà dâm cũng bị đọa vào đại địa ngục, từ trong địa ngục ra, hoặc làm giống cái trong loài súc vật. Nếu sinh trong loài người, sẽ làm hạng người gái lầu xanh, ban sơ còn tuổi trẻ sắc đẹp cũng chưa mấy khổ, lần lần nọc độc phong tình phát ra, sự khổ sở sẽ không cùng. Đã có miệng khéo nói năng, sao chẳng vì người chỉ đường hạnh phúc, lại thốt chi những lời tà vậy trau chuốt để gây họa cho chính mình và kẻ khác ư? Nói đôi chiều là nói khiêu khích thọc mách sự phải quấy của đôi bên, nhỏ thì lầm lạc người, lớn thì như nhà hại nước. Nói hung ác, là nói lời ác độc như gươm đao, khiến cho người khó nhẫn chịu sinh ra buồn khổ. Bốn điều này không làm thì khẩu nghiệp lành, làm thì khẩu nghiệp ác. Ý nghiệp có ba: tham dục, giận hờn và ngu si. Tham dục là đối với tiền tài, ruộng đất, đồ vật.v.v... đều muốn cho về nơi mình, dù được nhiều vẫn còn thấy ít. Giận hờn là: không luận mình phải hay quấy, nếu có ai không thuận theo bổn ý, liền phát sinh giận giữ, dù kẻ khác dùng lẽ phải khuyên bảo cũng chẳng nghe theo. Ngu si là chẳng phải tuyệt nhiên không biết việc chi. Chính như kẻ đọc hết sách thế gian, văn từ qua mắt liền thông thuộc, miệng mở thành thi bài, mà không tin lý nhân qủa ba đời cùng sự luân hồi sáu nẻo, cho rằng người chết thì mất, không có đời sau v.v... đều gọi là ngu si. Những sự hiểu biết như thế làm cho hư nước hại dân còn qúa hơn nạn nược lụt, thú dữ. Ba điều này không làm thì ý nghiệp lành, làm thì ý nghiệp ác. Người ba nghiệp thân khẩu ý đều lành, khi tụng kinh niệm Phật, công đức lớn hơn kẻ ba nghiệp ác gấp trăm ngàn lần. C. - Người học Phật cần phải giữ lòng tốt, nói lời tốt và làm việc tốt. Giữ lòng tốt là không nên khởi những tâm niệm ác, trái chính lý, có hại cho mình và người. Nếu tâm niệm ấy thoạt nổi lên, phải lập tức sinh lòng hổ thẹn sám hối, khiến cho nó liền tiêu diệt. Lại phải giữ gìn những tâm niệm: hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ có lợi vật lợi người. Đối với điều lành, sức mình có thể làm được việc chi, nên thiết thật mà làm; nếu không làm được thì cũng nên thường tâm niệm. Nói lời tốt là nói lời có ích cho người và vật, chớ không phải nói xu phụ cốt để cho người vui vẻ vừa lòng là lời tốt đâu. Đây chính là nói những lời răn dạy con cái, khuyên người làm lành, lánh dữ, giữ trọn nhân luân, gắng tu phúc tuệ. Làm việc tốt là phải thật hành việc hiếu thảo cha mẹ, cung kính sư trưởng, hòa thuận anh em, khuyến hóa mọi người. Và với những việc lễ sám, niệm Phật, tụng kinh, thân tâm phải chí thành cung kính. D. - Người học Phật, ban đêm không nên ở trần, mặc quần đùi mà ngủ. Vì một Phật tử lúc nào cũng phải gìn lòng như đối trước Phật. Đến bữa cơm không nên ăn qúa độ, thức ăn dù ngon, hạp miệng cũng chỉ nên ăn tám chín phần mà thôi. Nếu ăn đủ mười phần thì kẻ khác bị thiếu, mà tạng phủ mình cũng bị thọ thương. Phúc đức của phàm phu đâu có bao nhiêu, nếu thường ăn như thế, thọ lộc phải giảm. Vả lại khi ăn qúa nhiều, thân tâm mờ mệt, nếu thực phẩm không tiêu, tất ra hơi dưới. Việc nầy rất không thanh nhã, tội lỗi rất to. Như sự đốt hương ở điện Phật chẳng qua là để tiêu biểu lòng cung kính, xét lại mùi thơm đâu có bao nhiêu? Nếu ăn qúa no để cho ra hơi dưới..mùi hôi thúi xông đến Tam Bảo, thì đời sau tất phải bị qủa báo làm loài giòi. Vậy muốn tránh lỗi ấy, tốt hơn hết là ăn cho có điều độ. Thảng như bao tử yếu bị chứng hàn, món ăn khó tiêu, cảm thấy muốn ra hơi dưới, thì nên bước ra ngoài, đến chỗ trống cho ra, đợi khi hơi tan lại đi vào trong. Nếu có việc không ra ngoài được, thì phải dùng sức nén lại, giây phút hơi sẽ tiêu tan ở trong bụng. Có kẻ cho rằng làm như thế e sinh ra bệnh, lời nầy không nên nghe theo, vì nếu một chút vệ sinh không đáng vào đâu mà để cho ra hơi dưới nơi điện Phật , nhà Tăng, thì khổ báo của tội lỗi còn nặng gấp hơn muôn phần. Trong giới luật của Phật chế, chưa nói đến việc này, có lẽ người xưa thân thể mạnh khỏe không tham ăn, chẳng có điều bất nhã ấy, nên Phật chưa nói, nếu như có, tất Phật đã nói ra rồi! Vậy chớ cho rằng Phật không chế giới ngăn cấm điều ấy, mà tùy ý cho ra hơi dưới. Làm như thế là tự rước lấy sự đọa lạc, chừng ấy Phật muốn cứu độ cũng không biết làm sao? Thuở xưa Đức Khổng Tử lấy tư cách bậc thánh nhân đến chầu vị quốc quân phàm phu, khi còn ở dưới thềm sắp muốn bước vào triều, đã nén nhẹ hơi thở, huống chi lúc đối trước mặt vua? Cho nên, sách Luận Ngữ nói: So vạt áo bước lên đền, thân mình cúi xuống , nhẹ hơi dường như không thở". Chúng ta là phàm phu đầy nghiệp lực, đang lúc ở nơi điện Phật, một Đấng trời trong hàng Trời, Thánh trong hàng Thánh, là chỗ Tam Bảo đầy đủ mà không để tâm thúc liễm, mặc ý cho ra hơi hôi thúi nơi dưới, tội lỗi ấy lớn biết chừng bao? Xin chớ cho rằng tôi nói ra đây việc không thanh nhã, chỉ sợ cho kẻ thô suất lầm gây ra nhân dọa lạc loài giòi tửa đó thôi. E. - Người học Phật, sớm mai thức dậy và sau khi đại tiểu tiện đều phải rửa tay. Khi dùng tay gãi nơi thân, chà dưới chân cùng rờ các chỗ không sạch khác, đều cũng phải rửa. Dù tháng nóng nực, cũng không nên tự do mở nút áo để phơi ngực hoặc vén quần bày bắp vế. Tùy tiện khạc đàm hỉ mũi là một việc làm rất tổn phúc. Chẳng những ở trong Phật điện, Tăng đường, không được hỉ nhổ, mà bên ngoài điện đường chỗ đất sạch sẽ cũng không nên làm việc ấy, vì nơi đất sạch mà bị khạc nhổ, thì liền hiện ra tướng dơ. Có người thô tháo không kiêng dè, cứ hỉ nhổ bừa trong phòng, trên đất, nơi tường, thành ra trong nhà chỗ nào cũng có đàm dãi. Kẻ ấy cho rằng khạc đàm là được thông trệ và bỏ chất nhơ ra ngoài, nhưng không dè mỗi ngày thường nhổ như thế thì bao nhiều tinh hoa của chất ăn uống đều biến thành đàm, nhiều ngày sẽ sinh ra bệnh. Trong thân người có gì tinh sạch, tốt hơn là nên nuốt đi, lâu ngày sẽ không còn đàm nữa. Đây là phương pháp dùng đàm trừ đàm rất thần diệu. Nếu không nuốt được thì nên nhổ vào khăn tay, phải hành động cho khéo đừng để người thấy. Nhưng việc này cũng nhọc công và không sạch, chẳng bằng nuốt đi, đã không nhọc nhằn lại không bày ra sự nhơ nhớp; hơn nữa còn dứt được bệnh đàm. Vài điều trên đây, dường như khong đáng nói, có kẻ lại cho rằng nhỏ nhặt không mấy để tâm. Nhưng người học Phật phải giữ tư cách lễ nghi và biết sợ tội, nếu chẳng thế thì thành ra kẻ thô tháo sỗ sàng, hiện đời phúc giảm tội thêm, kiếp sau phải đọa lạc. G. - Người học Phật, mỗi cử động đều phải lưu tâm. Trong khi niệm Phật, cần phải chí thành, nếu có lúc thấy nơi lòng sinh ra bi cảm đó là tướng căn lành phát hiện. Tuy nhiên, cũng phải dè dặt, đừng để cho nguồn bi cảm thường thường phát lộ, nếu chẳng thế tất sẽ bị loài ma bi thương nhập vào. Phàm có việc chi vừa ý cũng không nên qúa vui mừng, vui mừng qúa độ sẽ bị loài ma hoan hỉ ám nhập. Khi niệm Phật, mí mắt phải sụp xuống và không nên qúa dùng tinh thần khiến cho tâm hỏa bừng lên. Những lúc cảm thấy trên đỉnh đầu tê rần ngứa nhức, đó là hiện tượng dùng tinh thần chuyên chú nhiều, cần phải điều độ cho vừa chừng. Khi niệm ra tiếng, không nên dùng sức lắm, phải ngừa sự mang bệnh. Lần chuỗi mà niệm có thể trừ chứng biếng trễ, nhưng khi ngồi yên không nên lần, lần thì tay động tâm thần mỏi nhọc không an, lâu ngày tất mang bệnh. H.- Người học Phật, khi xem kinh luận và các sách vở, chẳng nên qúa vội vàng, vội vàng thì tâm thần rối loạn không yên, rất khó hiểu được ý thú. Đời nay, nhiều người có đôi chút thông minh, khi được một bộ kinh sách liền quên ăn bỏ ngủ, xem một lần cho hết. Qua đến lần thứ hai thì không còn hứng thú xem nữa, dù có xem cũng như trạng thái phờ phạc mất thần. Hạng người này khó làm thành tựu việc chi, vậy phải gắng răn giữ. Ông Tô Đông Pha nói: "Sách xưa chẳng chán trăm lần đọc. Đọc kỹ suy cùng ý vị sâu!" Đức Khổng Tử là bực thánh nhân, mà còn đọc kinh Dịch nhiều phen, đến nỗi dây sách ba lần mòn đứt. Tư chất như ngài, văn từ qua mắt liền thông thuộc, tại sao lại cần phải xem văn mà đọc? Nên biêt xem văn có chỗ rất hay, bởi đọc thuộc lòng phần nhiều là sự làu thông ngoài miệng, xem văn thì dễ biết ý thú mỗi chữ mỗi câu. Vậy chúng ta lấy đó làm gương, đừng một mặt đọc thuộc lòng để tỏ ra mình là người thông minh nhớ giỏi... Lá Thư Tịnh Độ. Việt dịch: HT Thích Thiền Tâm. Ấn tống: Tịnh Liên Đồ Thư Quán Ðánh máy: Tuệ Cường